fbpx

Search Results for: luận cương 10

Người cứu nước Nga thoát khỏi Liên bang Xô-viết

Lawrence Reed & Yuri Maltsev  Đã đến lúc trả lại đúng vị thế cho một nhân vật quan trọng trong lịch sử nước Nga cận đại—Alexander Nikolaevich Yakovlev. Là một nhân vật hàng đầu trong những năm cuối cùng của chính quyền Xô-viết, Yakovlev khởi đầu sự nghiệp bằng cách tham gia quân đội và trở thành một sĩ quan của Hồng quân và trở thành đảng viên đảng Cộng sản, nhưng cuối cùng lại trở thành một kẻ tận tuỵ và hữu hiệu trong sự chống lại sự bạo ngược của chế độ Xô-viết. Yakovlev sẽ được người đời nhớ đến là kiến trúc sư chính của “đổi mới” (perestroika) trong những năm cuối thập niên 1980 cùng những hệ quả của nó: vạch trần những lời dối trá và tội ác tàn bạo của chế độ tội phạm Xô-viết và cái chết tất yếu của Cộng hoà Liên bang Xô-viết (USSR). Trong suốt cuộc đời, Yakovlev tự bản chất là người theo chủ nghĩa tự do cổ điển mà phải sống trong một trong những xã hội phi tự do, hẹp hòi, bần tiện, và tập trung nhất trong lịch sử. Ông không hề bị ảnh hưởng bởi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa hay chủ nghĩa quốc gia kiểu Nga. Trong suốt thập niên 1980 đầy xáo trộn, thập niên đỉnh điểm và cuối cùng của Liên Xô, Yakovlev là uỷ viên Bộ Chính trị, nhân vật thứ hai sau Gorbachev, người mà có lẽ chỉ đáng là học trò của ông hơn là lãnh tụ. Với chức vụ trưởng ban tư tưởng, Yakovlev được gọi bằng nhiều tên khác nhau bên cạnh danh hiệu “kiến trúc sư của đổi mới” như “Bố già của Cởi mở (glasnost),” “người giật dây Gorbachev,” “Trưởng ban Phản bội,” “Điệp viên CIA.” “Kẻ chống Xô-viết cuồng loạn,” “Kẻ thù của nhân dân,” và “Satan của tư bản,” tuỳ theo kẻ gọi thuộc phe nào. Thiếu thời Yakovlev sinh năm 1923 trong một gia đình nông dân ở một ngôi làng nhỏ bên bờ sông Volga gần thành phố cổ Yaroslavl. Cậu bé Alexander quá quen thuộc với sự khổ sở của đời sống Xô-viết trong suốt và sau thời kỳ diệt chủng mang cái tên “tập thể hoá” nông dân. Từ năm 1929 đến 1932, hơn 30 triệu nông dân người Ukraine, Byelorussian, và cả người Nga bị bỏ đói cho tới chết, bị đày đi Siberia, hay bị Stalin, hay những kỹ sư xã hội hoặc lính của y giết ngay tại chỗ. Yakovlev không bao giờ quên được những hình ảnh đau khổ, lưu đầy, giết chóc, và tra tấn. Nhưng, Yakovlev có làm được gì đâu. Một tháng sau khi Yakovlev tốt nghiệp trung học, Thế chiến II bắt đầu, và chàng lập tức bị động viên vào Hồng quân. Yakovlev kể lại: Ngay cả lúc đó, ở lứa tuổi đôi mươi, tôi đã nhận ra rằng tôi chỉ là bia đỡ đạn ngoài tiền tuyến. Tất cả những đồng chí, sĩ quan trẻ của tôi đều nghĩ vậy. Chúng tôi giấu đi thân phận của […]

Read more

Liệu Chúng ta có trở thành La-mã?

Lawrence W. Reed  LGT.  Lawrence W. Reed, Chủ tịch của Tổ chức Giáo dục Kinh tế (Foundation for Economic Education – FEE) trình bày sự suy thoái của nền Cộng hòa La-mã và đưa ra những lời cảnh báo cho nước Mỹ trong thế kỷ 21. “Ta có thể rút ra những bài học thật là hữu ích và phong phú từ quá khứ. Những bài học này được đặt trong ánh sáng của sự thật của lịch sử, là những thí dụ của mọi trường hợp có thể xảy ra. Từ đó, ta có thể lựa cho chính ta hay quốc gia của ta điều gì để  mô phỏng, và cũng để tránh những điều mà mang mầm họa từ trứng nước và kết quả thảm khốc nó mang lại.” — Sử gia La-mã Livy      Những khoản tiền khổng lồ do chính quyền chi ra để cứu trợ tài chánh. Sự gia tăng đến chóng mặt của nợ công. Sự tập trung quyền lực vào chính quyền trung ương. Một sự tranh chấp điên loạn của những nhóm lợi ích với vô vàn đòi hỏi công khố phải chi trả. Những quy định nở tung như nấm sau mưa nhằm hạn chế hoạt động của doanh nghiệp. Những lời kêu gọi đấu tranh giai cấp của những kẻ mị dân. Thuế khóa cao đánh trên sản phẩm. Đạo đức từng được coi là yếu tố quan trọng xây dựng đức tính vững mạnh ngày một suy đồi. Những điều này đang xảy ra trong thế kỷ thứ hai mươi mốt tại Mỹ cũng như đã xảy ra cho La-mã, nhà nước phúc lợi và xấu số, hai ngàn năm trước. Cả La-mã và Mỹ được sinh ra từ cuộc cách mạng chống lại chế độ quân chủ—Mỹ chống lại Anh quốc và La-mã chống lại dân Etruscan.[1] [Sau cuộc cách mạng] và cảnh giác với sự tập trung quyền lực, cả hai đều lập nên chế độ cộng hòa có cơ chế kiểm soát và cân bằng, phân ngăn quyền lực và bảo vệ một số quyền nhất định, nếu không của tất cả mọi người, thì cũng của một số người. Mặc dù có những khuyết điểm, sự thiết lập chế độ Cộng hòa La-mã vào thế kỷ thứ Sáu trước Công nguyên và sự thành lập chế độ Cộng hòa Mỹ vào thế kỷ 18 sau Công nguyên là đại biểu cho sự tiến bộ vĩ đại nhất về quyền tự do cá nhân trong cả lịch sử của nhân loại. Lịch sử của Cổ La-mã trải dài một ngàn năm—khoảng 500 năm là chế độ cộng hòa và 500 năm là chế độ đế quốc quý tộc; sự ra đời của Chúa Jesus xảy ra trong những năm chuyển tiếp giữa hai giai đoạn. Như sử gia Thomas Madden đã mô tả trong cuốn sách Những Đế quốc của Sự Tín nhiệm (Empires of Trust), xuất bản năm 2008 về sự tương đồng giữa hai nền văn minh La-mã và Mỹ khi La-mã theo chế độ cộng hoà trong nửa thiên niên kỷ đầu tiên. […]

Read more

Mười Phủ quyết hay nhất của các tổng thống trong lịch sử Hoa Kỳ

LGT. Thể chế dân chủ pháp trị được xây dựng trên hai khái niệm căn bản: quyền lực được tách biệt và được kiểm soát và cân bằng. Hiến pháp Hoa Kỳ đã thiết lập quyền phủ quyết để cho hành pháp và lập pháp có thể kiểm soát lẫn nhau. Bài viết dưới đây trình bày 10 phủ quyết hay nhất của các tổng thống Mỹ. Phủ quyết là một trong số những đóng góp nổi tiếng nhất mà chế độ Cộng hoà cổ La mã trước đây 25 thế kỷ đã để lại cho thế giới.Đây là 10 trong số các phủ quyết hay nhất Lawrence W. Reed Tổng thống James Garfield đặt tên con chó cưng của ông là Veto. Đó là một con chó đen khổng lồ giống Newfoundland nhưng đáng yêu, nặng khoảng 50 kg, Quốc hội hiểu ý: một dự luật bất hợp hiến sẽ được đưa vào ngay chuồng chó của Tổng thống. (Đáng tiếc là không có dự luật nào bị như vậy, vì tổng thống Garfield chỉ tại chức có 5 tháng) Quyền phủ quyết (veto) là một công cụ đáng kính đã có từ lâu tại nhiều quốc gia có chính thể cộng hòa. Cùng với giới hạn nhiệm kỳ, phân quyền, habeas corpus[1], và các quy định khác, phủ quyết đã là một đóng góp lịch sử mà nền Cộng hòa La Mã để lại cho thế giới từ 25 thế kỷ trước. Từ veto có nguồn gốc từ tiếng La tinh, có nghĩa là “Tôi cấm!” Người La Mã thời trước kiên quyết kìm hãm tham vọng của những người mê quyền lực đến nỗi họ cho phép diễn đàn của viện dân cử có quyền bác bỏ dự luật của Thượng viện, và họ cho hai viên chức cao cấp nhất trong chính quyền (consuls) có quyền bác bỏ quyết định lẫn nhau. Phủ quyết giúp kìm hãm các nhà lập pháp quá khích và gìn giữ nền Công hòa trong gần 500 năm. . Cảm hứng từ những người La Mã, ngay từ lúc đầu các nhà lập quốc Hoa Kỳ đã đưa quyền phủ quyết của Tổng thống vào trong quyền quy định bởi Hiến pháp – trong Điều 1, Đoạn 7. Tổng thống có thể ngăn chặn một biện pháp không cho trở thành luật bằng cách gửi lại cho Quốc hội dự luật không ký nội trong 10 ngày sau khi Quốc hội đã thông qua (“regular veto” – phủ quyết bình thường) hoặc chỉ không ký dự luật sau khi Quốc hội hoãn họp (“pocket veto”). Phủ quyết bình thường có thể bị vô hiệu hóa, nhưng chỉ khi nào cả hai viện có được đa số 2/3 số phiếu. Từ thời tổng thống George Washington, chỉ có 7% trong số 2572 lần phủ quyết là thật sự bị vô hiệu hóa. Trong tạp chí National Interest, số ngày 8 tháng 6 năm 2014, tác giả Robert W. Perry nhận xét , Phủ quyết của tổng thống là một trong những khoản hàng đầu trong Hiến pháp để ngăn ngừa các hoạt […]

Read more

Vài Suy Nghĩ về Giáo Dục : Chương 4

Phương Pháp Tổng Quát Đoạn 63 Nhưng nếu ta áp dụng đúng các phương pháp giáo dục tốt thì ta không cần đến những loại phần thưởng hay trừng phạt thông thường mà ta thường nghĩ đến hay áp dụng theo thói quen. Thật vậy, các hành động dại dột nhưng ngây thơ, các trò chơi của con trẻ, tất cả phải cho phép đứa trẻ chơi tự do, không hạn chế, chừng nào mà đứa trẻ vẫn tôn trọng những người hiện diện; các lỗi lầm này là những lỗi lầm của lứa tuổi chứ không phải là của chính bản thân đứa trẻ. Và nếu, đúng như ta phải làm,  để cho thời gian, cho sự bắt chước, cho năm tháng chín mùi sửa chữa các lỗi lầm ấy thì đứa trẻ sẽ tránh được các trừng phạt áp dụng không đúng lúc và không có hiệu qủa. Các trừng phạt này hoặc là không đàn áp được các khuynh hướng tự nhiên của đứa trẻ; và nếu cứ lập đi lập lại một cách vô ích thì khi thật sự cần dùng đến chúng sẽ không còn hiệu qủa nữa; hoặc là nếu chúng đủ mạnh để làm giảm niềm vui tự nhiên của tuổi trẻ, chúng chỉ làm hư thể xác và trí óc của đứa trẻ. Nếu khi trẻ con chơi, chúng gây tiếng ồn ào và gây xáo trộn, làm cho người có mặt khó chịu (sự việc này chỉ xảy ra khi cha mẹ có mặt ở đó) thì nếu cha mẹ biết dùng uy quyền của mình, một tiếng nói, một cái nhìn của cha hoặc mẹ cũng đủ làm cho chúng đi chơi chỗ khác hay làm chúng yên lặng một thời gian. Nếu ta muốn kích thích trí óc, gia tăng thể lực và sức khỏe của đứa trẻ thì tốt hơn hết là nên khuyến khích hơn là la mắng, đánh đập, đàn áp cái tâm trạng vui nhộn này mà thiên nhiên dành cho lứa tuổi và tâm tính đứa trẻ vào lúc đó. Nghệ thuật cao nhất là biến tất cả những gì đứa trẻ làm thành những trò chơi thích thú. Đoạn 64 Ở đây, hãy cho tôi nhấn mạnh đến một lỗi lầm trong phương pháp mà người ta thường dùng trong giáo dục: đó là việc nhồi nhét trí óc đứa trẻ trong mọi trường hợp với những luật lệ và lời giáo huấn mà nó không thể hiểu và sẽ quên ngay. Nếu đó là một việc mà ta muốn đứa trẻ làm, và cứ mỗi lần nó quên đi hay làm không tốt, thì ta hãy bắt nó lập đi lập lại cho đến khi có kết quả tốt. Làm như vậy có hai lợi ích: thứ nhất là nhận xét xem đó có phải là một việc mà trẻ con có khả năng thực hiện được hay không, hay là việc ta muốn trẻ làm có hợp với lứa tuổi của nó hay chưa; bởi vì có nhiều khi ta đòi hỏi nơi đứa trẻ những việc mà sau đó nó […]

Read more

Vài Suy Nghĩ về Giáo Dục : Lời Giới Thiệu

John Locke sinh ngày 29 tháng 8, 1632 gần thành phố Bristol, Anh Quốc. Ông theo học tại trường Westminster, nơi mà Dresden học cùng thời với ông, và tại Christ Church, đại học Oxford. Nhà lý luận về giáo dục tương lai không có một ý niệm tốt nào về các môn học thịnh hành vào hồi đó ở cả hai trường như ông ám chỉ trong cuốn sách này; tuy nhiên, sau khi đậu bằng Cao Học vào năm 1658, ông trở thành giáo sư phụ giảng tại Oxford, và giảng viên về tiếng Hy Lạp và thuật hùng biện. Sau một chuyến viếng thăm lục địa Âu Châu vào năm 1665 với tư cách là thư ký cho một toà đại sứ, ông trở về Oxford và theo học ngành y khoa. Vừa là bạn, vừa là bác sĩ riêng, ông trở nên gắn bó với Lord Ashley (sau trở thành Bá Tước Shaftesbury thứ nhất); và sau khi nhà qúy tộc này trở thành quan Chưởng Ấn, Locke được bổ nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Liên lạc Tôn giáo. Bá Tước Shaftesbury rời chức vụ trên vào năm 1673 và hai năm sau đó Locke qua định cư tại Pháp vì lý do sức khoẻ; ông sinh sống bằng nghề làm gia sư cho con trai của Sir John Banks và làm bác sĩ riêng cho phu nhân của vị Sứ Thần Anh tại Paris. Năm 1679, Shaftesbury tham chính trở lại và gọi Locke trở về Anh Quốc. Locke miễn cưỡng tuân lệnh người đỡ đầu mình; ông giúp đỡ Shaftesbury trong các vấn đề chính trị và giám thị việc học hành của đứa cháu ông ta (đứa cháu này sau là tác giả của cuốn “Characteristics”). Khi sự nghiệp chính trị của Shaftesbury sụp đổ, cả hai đều trốn qua Hoà Lan tị nạn. Trong hai năm đầu ở Hà Lan, Locke đi du lịch và giao du với các học giả ở Âu Châu. Nhưng vào năm 1685 chính phủ Anh Quốc xem ông như là một tên phản quốc và yêu cầu chính phủ Hoà Lan dẫn độ. Và ông bị bắt buộc phải lẩn trốn cho đến khi được Vua James II xá tội, dù không có chứng cớ nào cho biết ông đã phạm tội gì ngoài việc là bạn của Shaftesbury. Mãi đến năm Locke 54 tuổi ông mới bắt đầu cho ấn hành các kết quả của cả một đời suy tư và nghiên cứu của ông. Bản tóm tắt tác phẩm vĩ đại của ông “Luận văn về Sự Hiểu Biết của Con Người” (Essay Concerning Human Understanding) được bạn ông là Le Clerc ấn hành trong bộ “Bibliothèque Universelle” và toàn bộ tác phẩm ra đời năm 1690. Cũng chính từ Hoà Lan mà ông viết những lá thư để khuyên bảo một người bạn trong cách nuôi dạy con. Các lá thư này về sau đã được ấn hành thành cuốn “Vài Suy Nghĩ Về Giáo Dục” (Some Thoughts Concerning Education). Trong thời gian lưu đày Locke có dịp làm thân với William […]

Read more

Diễn văn Cuối cùng của Mục sư Martin Luther King: Tôi Đã Lên Tới Đỉnh núi

MEMPHIS, Tenn., ngày 3 tháng Tư, 1968 LGT. Mục sư Martin Luther King đọc bài diễn văn này vào ngày 3 tháng Tư, thì vào ngày 4 tháng Tư ông bị James Earl Ray ám sát. Cám ơn những người bạn chân thành của tôi. Khi tôi nghe Ralph Abernathy giới thiệu tôi bằng những lời lẽ hùng hồn và ca ngợi không hết lời, tôi không biết anh ấy đang nói về ai. Thật ra có được người bạn chí cốt đồng thời cũng là cộng tác viên nói những điều tốt về mình, thì quả là tốt thật. Ralph Abenathy là người bạn tốt nhất tôi có được trên thế giới này. Tôi rất vui mừng được gặp mỗi quý vị trong đêm nay mặc dù có cảnh báo về một cơn bão đang kéo tới [Sự hiện diện của quý vị] cho thấy quyết tâm tham dự buổi gặp  mặt này của quý vị, dù thế nào đi chăng nữa. Có một điều gì đó đang xảy ra tại Memphis; một điều gì đó đang xảy ra trên thế giới. Và quý vị biết đó, nếu tôi được đứng ngay tại điểm mốc khởi đầu của dòng thời gian, cùng với khả năng có được một cái nhìn tổng quát và toàn cảnh của lịch sử nhân loại từ bấy tới nay, và Thượng đế bảo tôi rằng: “Martin Luther King, con muốn sống trong thời đại nào?” Tôi sẽ cất cánh bay trong tâm tưởng từ Ai-cập và tôi sẽ nhìn thấy những người con của Thượng đế trên cuộc hành trình cao cả từ những tù ngục tối tăm của Ai-cập đi qua, hay phải nói cho đúng là vượt qua Hồng Hải, qua những hoang mạc để tiến về Đất Hứa. Và dù [cuộc hành trình đó] có huy hoàng đến thế nào, tôi sẽ không dừng ở đó. Tôi sẽ tiếp tục đi đến Hy-lạp và đưa tâm trí tôi tới đỉnh núi Olympus. Và tôi sẽ được gặp Plato. Aristotle, Socrates, Euripides và Aristophanes đang tụ họp tại điện Parthenon. Và tôi sẽ dõi theo họ chung quanh điện Parthenon khi họ bàn về những vấn đề vĩ đại và vĩnh cửu của thực tại. Nhưng tôi sẽ không dừng ở đó đâu. Tôi sẽ tiếp tục, ngay cả đến những ngày hoàng kim vĩ đại của Đế quốc La-mã. Và tôi sẽ thấy những sự phát triển ở đó, do những đại đế và những nhà lãnh đạo khác nhau thực hiện. Nhưng tôi sẽ không dừng ở đó đâu. Tôi sẽ đi đến ngày của thời kỳ Phục hưng, và thật nhanh tìm hình ảnh của tất cả những điều thuộc thời đại Phục hưng, những điều đã đóng góp vào [sự phát triển] của đời sống văn hoá và mỹ thuật của loài người. Nhưng tôi sẽ không dừng ở đó. Tôi sẽ đi trên con đường tới nhà một người mà tôi được đặt tên theo chỗ ở của ông. Và tôi sẽ quan sát Martin Luther khi ông đóng 95 luận đề lên cửa nhà thờ ở […]

Read more

Tự do và tinh thần trách nhiệm là hai điều không thể tách rời

Tyler Brandt Bạn hình dung một xã hội tự do là như thế nào? Đó phải chăng là  một xã hội không tưởng nửa chủ nghĩa tư bản, nửa vô chính phủ, nơi mà các cá nhân được tự do vác nguyên khẩu súng trường tự động AK 47s xả đạn bắn vào mẫu khai thuế 1040 EZ trên cánh đồng trồng cần sa của mình? Đó phải chăng là một xã hội hài hòa không phải tuân theo các kế hoạch tập trung quan liêu, nơi mà người ta được tự do buôn bán và tham gia vào hoạt động thương mại? Đó phải chăng là căn hộ của riêng bạn, nơi không ai  kêu la bắt bạn rửa chén? Những yếu tố nào là cần thiết để tồn tại trong một xã hội tự do? Nó có phải là sự tin cậy, tính độc lập, lòng khoan dung hay hòa bình? Nó có phải là tinh thần thượng tôn pháp luật và sự chiến thắng của các quyềntự do tự nhiên?[1] Nó có phải là sự vắng bóng của cưỡng bách? Vài câu hại não cho vui, nhưng tôi muốn hỏi bạn để góp thêm một cách nhìn. Không thể có một xã hội tự do mà không có một tinh thần trách nhiệm đúng mức. Tôi biết là mình có vẻ như đang lên lớp dạy đời, nhưng hãy cứ nghe đã, được chứ? Sự Thiếu vắng Tinh thần Trách nhiệm Là sự Hỗn loạn Tự do và trách nhiệm là hai thứ không thể tách rời. Thoạt nghe, điều này có vẻ là một nghịch lý khi mà trách nhiệm là một sự kìm hãm cố hữu đối với tự do. Đã nói đến trách nhiệm là không có sự linh động và tự do tự tại. Tuy nhiên, những người thực sự muốn có tự do thì cũng muốn kèm theo sự tự chịu trách nhiệm. Nếu họ không mang trên vai gánh nặng trách nhiệm, thì thế giới sẽ biến thành một nơi đầy hỗn loạn. Khi mỗi người trở thành chủ nhân của chính mình, người đó cũng phải chấp nhận rằng những hành động mà họ thực hiện sẽ mang đến những hệ quả thực sự. Rằng anh ta sau đó sẽ phải chọn lựa một cách cẩn trọng với những hành động mà họ thực hiện với tư cách họ là người chịu trách nhiệm cho những hệ quả đó. Nếu không có một tinh thần trách nhiệm đúng đắn, những người có tinh thần tự quyết và tự định hướng sẽ không thể tạo nên một xã hội phồn vinh. Phải mang trên vai gánh nặng của hệ quả buộc mỗi cá nhân nhận lấy sức  nặng của riêng họ và tạo dựng mỗi góc của thế giới riêng của họ thành một nơi tốt đẹp hơn.Nếu họ không nghiêng vai nhận lấy trách nhiệm, thì thế giới sẽ biến thành một nơi đầy hỗn loạn, một nơi chẳng có gì đáng sống. Hiểu theo nghĩa này trách nhiệm là một thành  tố cần thiết của tự do. Trách nhiệm […]

Read more

PHẢN KHÁNG DÂN SỰ TRONG BỐI CẢNH QUYỀN LỰC BẤT TƯƠNG XỨNG

(Trích dịch) Véronique Dudouet “The practice of violence, like all action, changes the world, but the most probable change is to a more violent world” Hannah Arendt (1969, 80). 1. Giới thiệu1 Lịch sử của thế kỷ 20 đầy dẫy những thí dụ về những cuộc phản kháng bạo động, những thí dụ này cho thấy rằng phản kháng bằng bạo lực chống lại những hệ thống quyền lực bất công, độc tài hay sự thống trị của ngoại bang có khuynh hướng làm gia tăng cường độ bạo lực (thí dụ như những cuộc cách mạng tại Nga và Trung Hoa hay những cuộc chiến giải thực tại Phi châu và Á châu). Nhưng thế kỷ 20 cũng được mô tả bởi những cuộc đấu tranh bất bạo động có tác động mạnh mẽ. Một số những cuộc đấu tranh này được nhiều người biết đến (đấu tranh của Gandhi cho tự do của Ấn-độ, Martin Luther King, Jt với phong trào đấu tranh cho dân quyền tại Mỹ), trong khi có nhiều cuộc đấu tranh bất bạo động khác hầu như bị công luận và những cơ quan nghiên cứu bỏ quên. Mặc dú sức mạnh của sự phản kháng bất bạo động có vẻ như yếu đuối và không hữu hiệu khi phải đương đầu với quyền lực cực kỳ bất tương xứng, nó đã chứng tỏ được là một khí cụ chiến lược trong tay những cộng đồng bị gạt ra ngoài lề dòng chính dùng để khôi phục lại sự mất cân bằng về cơ cấu xã hội và đòi lại quyền được đối xử công bằng và tự quyết. Một câu hỏi, mà đã chưa được phân tích rộng rãi, và chương này tìm cách giải thích, là trong bối cảnh nào và điều kiện nào sự phản kháng bất bạo động có thể đóng góp vào sự xây dựng những tiến trình chuyển hóa xung đột bền vững và thành công. Chương này lập luận rằng sự phản kháng bất bạo động nên được xem là một bộ phận không thể thiếu được trong sự chuyển hóa xung đột, cũng như một phương thức khả thi nhằm đạt được hòa bình và công lý song song với những phương thức giải quyết xung đột chú trọng vào đối thoại, giải quyết vấn nạn, và phục hồi lại quan hệ hợp tác. Điều này có tính chất thích đáng đặc biệt trong thời kỳ chuyển tiếp đầu tiên của những cuộc xung đột vẫn tiềm ẩn trong đấu tranh với lực lượng bất tương xứng, như một chiến lược nhằm thụ quyền cho những nhóm khiếu kiện (thiểu số bị đàn áp, hay đa số bị mất quyền lực) có được quyền lực hầu tìm ra những cách thức hữu hiệu và xây dựng để đạt được công lý, nhân quyền và dân chủ mà không cần dùng tới bạo lực. Những kỹ thuật bất bạo động vẫn thường được những nhóm đấu tranh cho một quyền lợi đặc thù nào đó, như quyền của công đoàn hay chống vũ khí nguyên tử, quyền […]

Read more

Augustine: Đi tìm Chân lý và Sự khôn ngoan — Luật Bất công Không phải là Luật

Lawrence W. Reed Friday, March 04, 2016 Viết về một người mà ai cũng biết là một nhà thần học—một giám mục của thời kỳ Giáo hội Công Giáo đầu tiên—[chắc hẳn] ai cũng nghĩ rằng đây là một bài viết về những vấn đề tôn giáo. Augustine người xứ Hippo (sau này được phong thành Thánh Agustine) là một vĩ nhân, bất khả tự nghị của của tư tưởng và giáo huấn Cơ-đốc[1] trong những tài liệu ông viết ra vào đầu thế kỷ 15 sau Công nguyên. Cho đến ngày nay, Augustine cũng vẫn là một vĩ nhân trong những tín hữu Công Giáo, Tin Lành, và Chính thống Giáo Cơ-đốc Đông phương. Augustine là một anh hùng vì ông đã thay đổi cuộc đời hoang đàng, trụy lạc của mình và chuyển hóa [thành một đời sống thánh thiện]. Khi Augustine quyết định sống cuộc đời mình theo những tiêu chuẩn và hạnh kiểm cao nhất và sự chiêm nghiệm hàn lâm, ông cống hiến những trí huệ tiền phong về tự do, [khái niệm làm] nền tảng cho triết học Tây phương. Ta không cần phải là người theo đạo này hay đạo nọ để học từ một người sinh ra hơn 16 thế kỷ trước đây. Tỉnh Africa của La-mã sau này không sản sinh được một nhân vật nào như Agustine nữa. Ông sinh năm 354 sau CN ở Thagaste, nay gọi là Souk Ahras, thuộc Alegeria ngày nay. Được sống trong thời đại đó là được sống trong một thời đại quan trọng. Đến thế kỷ thứ tư, nền Cộng hòa La-mã cổ và những sự tự do của nó đã bị dập tắt hơn 400 năm rồi, và được kế tục bằng một nhà nước càng lúc càng thối nát, chuyên chế, bại liệt vì chiến tranh và dân ăn bám nhà nước: chế độ đó chính là Đế quốc La-mã. Chế độ này kéo dài gần được một thế kỷ sau khi Augustine sinh ra đời. Ông đã chứng kiến Visigoths1 phá hủy “Thành phố Vĩnh cửu” của La-mã năm 410. Hai mươi năm sau đó, khi quân Vandals2 bao vây thành phố Hippo của Augustine ở Bắc Phi, ông mất ở tuổi 75. Cuộc đời ông là một bằng chứng cho thấy ngay cả khi thế giới quanh ta có sụp đổ thành cát bụi, ta vẫn có thể tạo ra sự khác biệt hầu thăng tiến tương lai của nhân loại. Tuổi trẻ của Augustine chỉ chú trọng vào khoái lạc và chỉ nghĩ đến ‘cái tôi,’ dù cho ông được bà mẹ ông là Monica, người theo Thiên Chúa giáo thuần thành hết lòng cầu nguyện. Cha của Augustine là một người thâu thuế, tính tình hay thay đổi và hung dữ, nhưng khi lâm chung đã cải đạo sang Thiên Chúa giáo, lúc đó Augustine còn là một thiếu niên. Augustine có một bản năng tình dục mạnh mẽ và đã làm ông dính dáng vào nhiều vụ tai tiếng khiến ông hối hận sau này. Dù là một sinh viên giỏi với khả năng hùng biện […]

Read more

Diễn văn nhận giải Nobel Hòa bình của Mục sư Martin Luther King

10 tháng 12, 1964 Thưa Quốc vương cùng các vị trong Hoàng tộc. Thưa ông Chủ tịch, cùng các vị nhân sĩ. Thưa quý vị quan khách: Tôi nhận Giải Nobel Hòa bình vào thời điểm mà hai mươi hai triệu người Da đen của nước Mỹ đang dấn thân vào một cuộc chiến đầy sáng tạo để chấm dứt đêm dài của sự bất công chủng tộc. Tôi nhận giải thưởng này thay cho phong trào dân quyền, một phong trào đang chuyển động với ý chí và sự khinh thường ngạo nghễ trước sự rủi ro và nguy hiểm để thiết lập một triều đại của tự do và sự cai trị của công lý. Tôi ý thức rất rõ rằng chỉ mới hôm qua thôi tại Birmingham, bang Alabama, con cái của chúng tôi khi đòi hỏi tình Huynh đệ, đã bị đáp trả bằng vòi rồng, bằng tiếng gầm gừ của chó săn, và ngay cả cái chết. Tôi ý thức rất rõ rằng chỉ mới hôm qua thôi tại Philadelphia, tại Mississippi, những thanh niên tìm cách bảo vệ cho quyền được đi bầu bị đánh đập tàn nhẫn và giết hại. Tôi ý thức rất rõ rằng sự nghèo nàn cùng cực làm suy nhược đồng bào của tôi và xiềng xích họ lại vào trong nấc thấp nhất của bậc thang kinh tế. Vì vậy, tôi phải hỏi rằng tại sao giải thưởng này lại được trao tặng cho một phong trào đang bị vây khốn và đã chấp nhận một cuộc đấu tranh liên tục, và cho một phong trào chưa từng đạt được thắng lợi về hòa bình và tình Huynh đệ, tức là hai đặc tính thiết yếu của Giải Nobel. Sau khi suy ngẫm, tôi kết luận là giải thưởng này mà tôi thay mặt phong trào để nhận, là một sự công nhận sâu sắc rằng đấu tranh bất bạo động là đáp án cho vấn nạn nghiêm trọng về đạo lý và chính trị của thời đại của chúng ta; tức là, nhu cầu phải có của con người để chiến thắng sự đàn áp và bạo lực mà không phải dùng tới bạo lực và đàn áp. Văn minh và bạo lực là hai khái niệm tương phản. Những người Da đen ở Mỹ, theo gót những người Ấn-độ, đã chứng tỏ được rằng bất bạo động không phải là sự thụ động cằn cỗi, nhưng là một lực đạo lý mạnh mẽ được tạo ra nhằm chuyển hóa xã hội. Chẳng chóng thì muộn, tất cả những dân tộc trên thế giới sẽ phải tìm ra cách để sống cùng với nhau trong hòa bình, và do thế chuyển hóa khúc bi ca của vũ trụ còn đang dang dở trở thành bài thánh thi của tình Huynh đệ. Để đạt được điều này, con người phải phát triển một phương thức để chuyển hóa sự xung đột của loài người mà không dùng tới sự trả thù, công kích, và trả miếng. Nền tảng của phương thức đó là tình yêu thương. Con đường […]

Read more