fbpx

Kinh Doanh - Kinh Tế - Chính Trị

Cuộc chiến giành linh hồn củaĐức Đạt Lai Lạt Ma

Để khống chế Tây Tạng, Trung Quốc Cộng sản dấn thân vào cõi tâm linh

Lobsang Sangay

LOBSANG SANGAY là Giảng viên Trường Luật Harvard. Ông là Sikyong, hay Chủ tịch của chính phủ Tây Tạng lưu vong từ năm 2011 đến năm 2021.

Năm 1954, lãnh tụ tối cao của Trung Quốc Mao Trạch Đông đã gặp Tenzin Gyatso, lúc đó mới 19 tuổi và là Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, nhà lãnh đạo tinh thần và thế tục của Tây Tạng. “Tôn giáo , là thuốc độc.”, Mao gay gắt nhận xét với Đức Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi. Năm năm sau, lực lượng Trung Quốc tràn vào Tây Tạng và chiếm lấy đất nước, khiến Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhiều người Tây Tạng khác phải lưu vong. Những người cộng sản, những người tán thành chủ nghĩa vô thần và chế giễu tôn giáo, đã tìm cách đặt Tây Tạng dưới gông cùm Trung Quốc bằng cách đè bẹp văn hóa địa phương và các thể chế lịch sử của nước này; phá hủy các tu viện, ni viện và hiện vật văn hóa Phật giáo Tây Tạng; và đàn áp việc thực hành tín ngưỡng Phật giáo Tây Tạng.

Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, Bắc Kinh đã quan tâm quá đáng đến những chi tiết sâu xa của Phật giáo Tây Tạng. Thời báo Hoàn cầu, một cơ quan ngôn luận của nhà nước Trung Quốc, đã xuất bản trong hai năm qua một loạt bài viết khẳng định quyền kiểm soát của nhà nước Trung Quốc không chỉ đối với lãnh thổ mà còn đối với tâm hồn. Các bài báo cho rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) có tiếng nói quyết định đối với các truyền thống hướng dẫn niềm tin của người Tây Tạng vào sự tái sinh—đặc biệt đối với sự tái sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp theo.

Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma già đi, Trung Quốc ngày càng chú trọng nhiều hơn vào vấn đề kế vị ngài. Khi một Lạt ma cao cấp—một tu sĩ quan trọng—qua đời, chức vụ của ông thường được thay thế bởi một người được xác định là tái sinh của ông. Truyền thống này đã ăn sâu vào cơ cấu tinh thần và văn hóa của Phật giáo Tây Tạng. Trung Quốc Cộng sản, dưới thời Mao, có định hướng vô thần mạnh mẽ và kiên quyết, giờ đây đang tìm cách kiểm soát quá trình xác định sự tái sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Động thái táo bạo này cho thấy nỗ lực của Trung Quốc nhằm củng cố quyền kiểm soát Tây Tạng, một chiến lược không chỉ tìm cách làm suy yếu thể chế của Đức Đạt Lai Lạt Ma mà còn xâm phạm người dân Tây Tạng, nền văn hóa phong phú và nền văn minh của họ.

Ngoài sự gia tăng đáng kể gần đây trong hoạt động tuyên truyền của Trung Quốc về chủ đề này, Bắc Kinh đã triệu tập một ủy ban gồm các tu sĩ Tây Tạng do chính phủ lựa chọn và các quan chức chủ chốt của Đảng Cộng sản để chủ trì quá trình lựa chọn Đức Đạt Lai Lạt Ma kế vị. Các nhà chức trách đã tổ chức các cuộc triển lãm bảo tàng về sự tái sinh của các Đạt Lai Lạt Ma ở cả Bắc Kinh và Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, nêu bật những tuyên bố của chính phủ Trung Quốc về tính hợp pháp trong việc giám sát việc tuyển chọn. Một sự dàn dựng như vậy sẽ vi phạm trắng trợn truyền thống Tây Tạng và là một động thái gây quan ngại sâu sắc đối với người dân Tây Tạng.

Các chuẩn mực của truyền thống tái sinh của Phật giáo Tây Tạng và lập trường của Đức Đạt Lai Lạt Ma về sự tái sinh của chính ngài phải dẫn dắt quá trình xác định bất kỳ sự kế thừa nào trong tương lai. Theo truyền thống đó, những chỉ dẫn mà Đức Đạt Lai Lạt Ma để lại trước khi qua đời phải là cơ sở cho bất kỳ cuộc tìm kiếm nào nhằm xác định người kế nhiệm ngài. Tuy nhiên, Bắc Kinh muốn chiếm đoạt cả quyền lực tinh thần và thế tục ở Tây Tạng. Những vi phạm của chính phủ Trung Quốc là vô số, bao gồm cả việc can thiệp vào pháp luật, chủ nghĩa xét lại lịch sử, và việc phủ nhận hoàn toàn quyền cơ bản của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong việc hướng dẫn lựa chọn người kế nhiệm ông. Cùng với những nỗ lực rộng lớn hơn của chính phủ nhằm đàn áp văn hóa Tây Tạng, các hành động của Trung Quốc tạo thành sự vi phạm nghiêm trọng các quyền con người cơ bản của người dân Tây Tạng.

NGUỒN GỐC CỦA KHỞI ĐẦU MỚI

Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng là một nhà lãnh đạo tinh thần đáng kính, người tiếp tục thu hút được một lượng lớn tín đồ trên toàn thế giới. Những lời dạy của người, nhấn mạnh đến hòa bình và lòng từ bi, đã gây được tiếng vang khắp các nền văn hóa và tôn giáo và đã nâng người lên tầm cao đáng chú ý trong vài thập kỷ qua. Để ghi nhận những đóng góp của người cho hòa bình toàn cầu và bất bạo động, Đức Lạt Ma đã nhận được nhiều sự công nhận quốc tế, bao gồm Giải Nobel Hòa bình và Huy chương Vàng của Quốc hội Hoa Kỳ.

Sự tôn trọng mà Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận được trên khắp thế giới hoàn toàn trái ngược với sự chỉ trích của chính phủ Trung Quốc đối với người. Các quan chức Trung Quốc liên tục phỉ báng người, gọi ông là “kẻ chia rẽ” và “con sói đội lốt thầy tu”, đồng thời chế nhạo những người theo ông là “Bè lũ Đạt Lai Lạt Ma.” Bắc Kinh coi Đạt Lai Lạt Ma là một mối đe dọa, mặc dù ông đã sống lưu vong ở Ấn Độ từ năm 1959. Tất nhiên, mối đe dọa đó đã bị thổi phồng quá mức. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã không chủ trương Tây Tạng độc lập kể từ những năm 1970 mà thay vào đó, ngài yêu cầu quyền tự trị thực sự cho Tây Tạng trong khuôn khổ hiến pháp Trung Quốc. Kể từ năm 2011, ngài đã chuyển giao mọi trách nhiệm chính trị và hành chính của mình cho ban lãnh đạo Tây Tạng được bầu cử theo thể thức dân chủ. Tuy nhiên, chính phủ Trung Quốc vẫn tiếp tục cáo buộc ông kích động tình trạng bất ổn chính trị chống lại nhà nước.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã bước sang tuổi 88 đáng kính vào tháng 7 này. Vào một thời điểm nào đó trong những năm tới, câu hỏi về người kế nhiệm sẽ nảy sinh. Trung Quốc muốn xác định ai sẽ là Đạt Lai Lạt Ma tiếp theo, và các quan chức Trung Quốc rất quan tâm đến truyền thống tái sinh thiêng liêng của người Tây Tạng, được gọi là tulku. Trung Quốc quy định rằng một Lạt ma trẻ của truyền thống Phật giáo Tây Tạng sẽ kế thừa các trách nhiệm tôn giáo, kinh tế và chính trị của người tiền nhiệm sau khi người đó quá vãng. Quá trình dẫn đến việc xác định vị Lạt ma tái sinh được thực hiện theo những hướng dẫn do các vị hóa thân trước để lại và được thi hành bởi các học giả Phật giáo được đào tạo có bài bản, thường được vị Lạt ma tiền nhiệm lựa chọn. Trong trường hợp của các Đức Đạt Lai Lạt Ma, quá trình này thường được giám sát bởi quan nhiếp chính do Đức Đạt Lai Lạt Ma bổ nhiệm hoặc bởi chính phủ Tây Tạng. Trong tám thế kỷ qua, nhiều Lạt ma tái sinh đã được tìm thấy trên khắp cao nguyên Tây Tạng cũng như ở những nơi khác trong thế giới xa xôi của Phật giáo Tây Tạng: ở vùng Himalaya của Bhutan, Ấn Độ và Nepal, và thậm chí ở những khu vực như Mông Cổ và các vùng khác của Nga, nơi có nhiều hành giả Phật giáo Tây Tạng, đặc biệt là ở các nước cộng hòa Buryatia, Kalmykia và Tuva của Nga.

LẠT MA VÀ QUAN CHỨC

Năm 2007, chính phủ Trung Quốc khẳng định quyền tài phán của mình đối với các vấn đề tâm linh và tuyên bố rằng hệ thống tulku chỉ có thể hoạt động khi có sự chấp thuận của nhà nước. Các tiền lệ truyền thống không đủ để chi phối việc lựa chọn các Lạt ma tái sinh; bây giờ thể thức lựa chọn phải tuân theo luật pháp Trung Quốc. Các cơ quan chức năng đã ban hành nghị định cấp quốc gia thông qua Vụ Hành chính Nhà nước và Tôn giáo. Đạo luật này đã chính thức hóa một bộ quy tắc tái sinh trước đó được Khu tự trị Tây Tạng do Trung Quốc kiểm soát công bố vào năm 1995.

Trung Quốc có thể chính thức là một quốc gia vô thần, nhưng thông qua luật pháp như vậy, họ tiếp tục can thiệp vào đời sống tôn giáo của người dân. Hồ sơ theo dõi của Trung Quốc về việc can thiệp vào việc lựa chọn các Lạt ma tái sinh của Tây Tạng đã tỏ ra phần lớn không thành công, thường dẫn đến sự lo lắng và bối rối lan rộng trong người Tây Tạng. Một ví dụ đáng lo ngại là trường hợp của Ban Thiền Lạt Ma thứ 11, vị Lạt ma nổi tiếng thứ hai trong Phật giáo Tây Tạng, người được Đức Đạt Lai Lạt Ma xác nhận vào năm 1995 khi mới 5 tuổi là hóa thân của Ban Thiền Lạt Ma thứ mười. Cùng năm đó, chính phủ Trung Quốc đã buộc phải trục xuất Đức Đạt Lai Lạt Ma khỏi quê hương Tây Tạng. Các nhà chức trách sau đó đã nâng cao sự lựa chọn của riêng họ về một cậu bé làm Ban Thiền Lạt Ma thứ 11. Cậu bé mất tích vẫn mất tích sau 29 năm, cũng như cha mẹ cậu và các thành viên chính của ủy ban tìm kiếm đã xác định danh tính cậu.

Sự can thiệp của Trung Quốc vào hệ thống luân hồi cũng đã dung túng những tập tục xấu. Theo luật pháp Trung Quốc, tất cả các Lạt ma tái sinh đều phải đăng ký với chính phủ, dẫn đến việc biến một hoạt động tôn giáo thiêng liêng thành một quy trình quan liêu, dễ bị lạm dụng một cách bẩn thỉu. Jampel Gyatso, một học giả Tây Tạng nổi tiếng và là thành viên cấp cao của ĐCSTQ, đã cáo buộc vào năm 2016 rằng hối lộ và tham nhũng lan tràn trong các quan chức Trung Quốc tham gia vào quá trình công nhận các Lạt ma tái sinh. Từ năm 2007 đến năm 2017, dưới vỏ bọc tôn giáo và truyền thống, số lượng Lạt ma đã đăng ký đã tăng gấp bốn lần từ khoảng 300 lên hơn 1.300, một sự gia tăng liên quan nhiều đến lợi ích chính trị tham nhũng hơn là nhu cầu tâm linh. Sự can thiệp chính trị này đã phủ bóng đen lên sự bất ổn và nghi ngờ đối với truyền thống Tây Tạng lâu đời.

Cùng với việc quan liêu hóa hoạt động văn hóa và tâm linh của người Tây Tạng, Trung Quốc chủ yếu dựa vào sự bóp méo lịch sử để khẳng định tính hợp pháp của mình trong việc can thiệp vào các vấn đề tôn giáo của người Tây Tạng. Một bài báo của Global Times vào năm 2021 đã tuyên bố sai sự thật rằng tất cả các Đạt Lai Lạt Ma trước đây đều sinh ra ở Trung Quốc. Ngay cả với giả định rằng Tây Tạng luôn là một phần của Trung Quốc, không phải tất cả các Đạt Lai Lạt Ma đều sinh ra ở nơi được công nhận là Tây Tạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ tư, Yonten Gyatso, là một người dân tộc Mông Cổ sinh ra ở Mông Cổ, trong khi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ sáu, Tsangyang Gyatso, là một người dân tộc Monpa đến từ Arunachal Pradesh ngày nay ở Ấn Độ. Hơn nữa, chính phủ Trung Quốc khẳng định không chính xác rằng Hoàng đế nhà Thanh Shunzhi (Thuận Trị) đã phong tước hiệu “Đạt Lai Lạt Ma” vào năm 1653 cho các nhà lãnh đạo tinh thần Tây Tạng. Trên thực tế, danh hiệu “Dalai” là một từ tiếng Mông Cổ có nghĩa là “Đại dương” và được lãnh đạo người Mông Cổ Altan Khan ban tặng vào năm 1578. “Đạt Lai Lạt Ma” dịch là “Đại dương trí tuệ” và không có mối liên hệ nào với ngôn ngữ Trung Quốc hay lịch sử triều đại Trung Quốc.

SẮC LỆNH MẤT TÍCH

Lịch sử, hoặc ít nhất là một sự hiểu biết cụ thể về lịch sử, là nền tảng cho sự can thiệp của Trung Quốc vào vấn đề luân hồi. Chính phủ Trung Quốc đặt quyền bổ nhiệm và công nhận các Lạt ma tái sinh, đặc biệt là các Đạt Lai Lạt Ma, dựa trên một sắc lệnh quản lý Tây Tạng được cho là có từ thời nhà Thanh vào cuối thế kỷ 18.

Tuy nhiên, các học giả vẫn không thể tìm ra bản gốc hay bản sao của sắc lệnh này. Rõ ràng nó không có trong nhiều kho lưu trữ thời nhà Thanh và không có phiên bản tiếng Trung hay tiếng Tây Tạng nào được tìm thấy. Chính quyền Trung Quốc chỉ ra một tài liệu bằng tiếng Tây Tạng mà họ khẳng định có chứa các ghi chú do một quan chức của amban, sứ thần nhà Thanh, ở Tây Tạng biên soạn. Sự thiếu vắng của một sắc lệnh thực, nếu có—được cho là đặt ra luật về cách quản lý toàn bộ Tây Tạng—không chỉ gây thắc mắc mà còn đáng nghi ngờ. Sự thiếu vắng này thậm chí còn đáng ngạc nhiên hơn khi xét tới danh tiếng của các nhà lưu trữ văn khố của đế quốc Trung Quốc, đặc biệt là của triều đại nhà Thanh, về việc họ lưu giữ hồ sơ một cách tỉ mỉ và đáng kể. Tuy nhiên chính quyền Bắc Kinh cho rằng họ có quyền bổ nhiệm vị Đạt lai La ma kế tiếp  dựa trên một sắc lệnh không có.

Cũng thật mỉa mai khi ĐCSTQ tìm cách viện dẫn quá khứ nhà Thanh để biện minh cho việc kiểm soát cuộc sống của người Tây Tạng. Một thế kỷ trước, những người cộng sản cũng như những người theo chủ nghĩa dân tộc cộng hòa đều lên án nhà Thanh – những người cai trị xuất phát từ Mãn Châu – là “ngoại bang”, “gây chia rẽ” và “áp bức.” ĐCSTQ được thành lập để “đánh đổ ba ngọn núi” là “chủ nghĩa đế quốc” (sự can thiệp của phương Tây vào Trung Quốc), “chế độ phong kiến” (sự cai trị của nhà Thanh) và “chủ nghĩa tư bản quan liêu” (sự cai trị theo chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc). Không một đạo luật hay sắc lệnh nào từ thời nhà Thanh còn hiệu lực trước công chúng. Tuy nhiên, bằng cách nào đó, Bắc Kinh nghĩ rằng họ có thể viện dẫn một sắc lệnh của nhà Thanh thế kỷ 18 khi đề cập đến vấn đề tái sinh của các Lạt ma Tây Tạng.

Sự hoài nghi đó càng trở nên khó chịu hơn khi người ta xem xét lý do tại sao, và quan trọng nhất, là khi Bắc Kinh bắt đầu quan tâm đến vấn đề tái sinh của các Lạt ma. Từ năm 1959 đến năm 1990, chính quyền Trung Quốc không cho phép người Tây Tạng lựa chọn các Lạt ma mới trong hầu hết các dòng luân hồi của Phật giáo Tây Tạng. Chỉ đến năm 1990, sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma được trao giải Nobel Hòa bình năm 1989, chính phủ Trung Quốc mới tìm cách khôi phục các tổ chức tôn giáo, chẳng hạn như truyền thống tulku, ở Tây Tạng nhằm cân bằng sự nổi tiếng ngày càng tăng của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Việc đưa ra các quy định về tái sinh vào năm 1995 đã được tính toán để cho phép chính phủ can thiệp vào việc lựa chọn Ban Thiền Lạt Ma thứ 11. Và những nỗ lực gần đây hơn của Trung Quốc nhằm viện dẫn sự kế thừa của các thể chế thời nhà Thanh và nhấn mạnh vào tính liên tục của lịch sử – khi điều này không đạt được trong bất kỳ lĩnh vực nào khác của luật pháp Trung Quốc – dường như nhắm một lý do: để kiểm soát việc bổ nhiệm Đạt Lai Lạt Ma kế vị.

HƯỚNG DẪN CHO KIẾP SAU

Theo truyền thống Tây Tạng, những cuộc thảo luận về kiếp sau của một vị thầy tâm linh không được khuyến khích khi cá nhân đó vẫn còn sống. Nó được coi là thiếu tế nhị và bất kính, gần như thể dân chúng đang háo hức mong cho vị Lạt ma qua đời. Chính phủ Trung Quốc đã tỏ ra quan tâm sâu sắc tới hiện thân tương lai của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, trong khi chính Đức Đạt Lai Lạt Ma lại coi nhẹ những suy đoán này . Chẳng hạn, năm 2019, khi được hỏi về kiếp sau, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã hóm hỉnh trả lời: “Việc tái sinh của tôi có gì vội vàng? Tôi có thể đã 84 tuổi nhưng sức khỏe của tôi vẫn tốt.”

Hiển nhiên là Đức Đạt Lai Lạt Ma và cộng đồng Tây Tạng quan tâm tới tác động sâu sắc của cái chết và sự tái sinh của ngài đối với tương lai của Tây Tạng và thế giới Phật giáo nói chung. Sự vô lý của một nhà nước cộng sản vô thần — một mặt không ngớt phỉ báng Đức Đạt Lai Lạt Ma và cấm trưng bày chân dung của ngài—mặt khác lại ngang ngược muốn cho mọi người biết sự tái sinh của ngài là do họ chỉ đạo. Từ năm 2009 đến năm 2022, 157 người đã tự thiêu ở Tây Tạng để đòi Đức Đạt Lai Lạt Ma trở về và tự do cho người Tây Tạng. Sự mâu thuẫn càng tăng cao bởi thực tế là ĐCSTQ, sau khi xâm chiếm Tây Tạng vào những năm 1950, đã là kẻ phá hủy gần như toàn bộ khoảng 6.000 tu viện và ni viện Tây Tạng và bắt buộc hầu hết các tăng ni ở Tây Tạng phải từ bỏ áo tu. Hàng nghìn tấn hiện vật văn hóa cổ đại của Tây Tạng, chiếm tới 3/4 tổng số được lưu giữ tại các địa điểm của Tây Tạng, đã bị phá hủy, cướp hoặc tái chế để lấy các thành phần của các lễ vật. Bây giờ chính đảng này lại tuyên bố rằng họ có quyền lựa chọn các nhà lãnh đạo Phật giáo, kể cả Đức Đạt Lai Lạt Ma kế tiếp, thì không ai có thể tin được.

Năm 2011, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đưa ra tuyên bố rõ ràng nhất về sự tái sinh của mình, dứt khoát bác bỏ sự can thiệp của Trung Quốc. Ngài tuyên bố sẽ để lại những hướng dẫn rõ ràng bằng văn bản sẽ được thi hành bởi Gaden Phodrang Trust (văn phòng riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma), với sự tham khảo ý kiến của các Lạt ma cấp cao của các dòng  Phật giáo Tây Tạng và những người khác theo Phật giáo Tây Tạng. Ngài nói rõ thêm rằng chỉ cá nhân được sắp tái sinh mới có thẩm quyền xác định nơi và cách thức tái sinh của mình cũng như cách thức tái sinh đó có thể được công nhận. Ngài tuyên bố rõ ràng rằng nếu ngài chết trong khi lưu vong thì sự tái sinh của ngài sẽ xảy ra bên ngoài Trung Quốc. Đây là sự tố cáo rõ ràng về những nỗ lực của chính phủ Trung Quốc nhằm can thiệp vào hệ thống luân hồi, một quan điểm đã được củng cố tại hội nghị năm 2019 giữa các nhà lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng và Bon (truyền thống tôn giáo Tây Tạng có trước Phật giáo), tất cả đều sống lưu vong. Trong tuyên bố từ năm 2011, Đức Đạt Lai Lạt Ma nêu rõ rằng ông sẽ làm rõ các hướng dẫn về việc kế vị vào khoảng thời gian ông 90 tuổi (năm 2025).

Tuy nhiên, chính phủ Trung Quốc có thể sẽ bác bỏ bất kỳ quyết định nào liên quan đến việc kế vị của Phật tử Tây Tạng và văn phòng của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Chính phủ của các quốc gia ủng hộ quyền tự do biểu đạt tôn giáo như một quyền cơ bản của con người phải ủng hộ và nhấn mạnh rằng quá trình lựa chọn Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp theo diễn ra mà không có sự can thiệp chính trị của Trung Quốc.

ĐỒNG MƯU TRONG IM LẶNG

Trong nhiều thế kỷ, người Tây Tạng đã duy trì một truyền thống huyền bí và phức tạp trong việc quản lý sự kế vị của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Thủ tục được thiết lập này đã đảm bảo sự chuyển giao quyền lực phần lớn diễn ra suôn sẻ và không phức tạp, chỉ có một vài ngoại lệ. Không thể chấp nhận được việc Trung Quốc mưu toan chiếm đoạt quyền cơ bản của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong việc quyết định người kế nhiệm sẽ được lựa chọn như thế nào, một truyền thống đã được tuân theo trong 5 thế kỷ.

Trung Quốc không có thẩm quyền đạo đức hay pháp lý để can thiệp vào việc kế vị, và việc họ làm như vậy là một tình huống đáng báo động đòi hỏi phải có phản ứng toàn cầu để bảo vệ tự do tôn giáo và đảm bảo sự ổn định. Hoa Kỳ đã thực hiện một động thái đáng kể theo hướng này bằng cách ban hành Đạo luật Hỗ trợ và Chính sách Tây Tạng vào năm 2020, trong đó tuyên bố rằng “bảo vệ quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng được quốc tế công nhận, bao gồm cả việc đảm bảo rằng việc xác định và lập các lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng bao gồm cả Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 15 trong tương lai, là vấn đề chỉ được xác định trong cộng đồng tín ngưỡng Phật giáo Tây Tạng, dựa trên chỉ dẫn của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, mà không có sự can thiệp của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.” Bất kỳ quan chức Trung Quốc nào can thiệp vào quá trình này sẽ phải đối mặt với các biện pháp chế tài.

Tuy lập trường của Mỹ có ích nhưng chính sách này sẽ không thành công nếu không có sự ủng hộ cụ thể từ các nước và khối chủ chốt khác, bao gồm Châu Âu và Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), các quốc gia như Ấn Độ và Mông Cổ có các cộng đồng lớn theo Phật giáo Tây Tạng và các quốc gia như Canada, Nhật Bản và Hàn Quốc có mối quan hệ đặc biệt với Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Nghị viện Châu Âu nên đồng ý với đạo luật tương tự được thông qua ở Hoa Kỳ trong đó nêu rõ EU (nơi Phật giáo là tôn giáo lớn thứ ba – hoặc thứ tư – ở nhiều nước Châu Âu) công nhận quyền duy nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong việc quyết định việc tái sinh của ngài. Ấn Độ cũng có trách nhiệm đặc biệt trong việc công khai thể hiện quan điểm đó. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã sống ở đó với tư cách là một vị khách trong hơn sáu thập kỷ và tự gọi mình là người con của Ấn Độ vì Phật giáo có nguồn gốc ở đất nước này hơn 2.000 năm trước. Mông Cổ, với phần lớn dân số theo đạo Phật, hầu hết đều là tín đồ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, cũng nên tuyên bố rõ ràng rằng việc tái sinh của Đức Đạt Lai Lạt Malà tùy thuộc vào ngài.

Nhật Bản, nước thường xuyên đón tiếp Đức Đạt Lai Lạt Ma và là quê hương của nhiều tín đồ của ngài, cũng nên đưa ra những tuyên bố tương tự. Đức Đạt Lai Lạt Ma là công dân danh dự của Canada, và do đó chính phủ Canada có trách nhiệm bảo vệ quyền tự do tôn giáo của ngài. Điều quan trọng đối với các quốc gia Phật giáo như Hàn Quốc và một số thành viên của ASEAN là bảo vệ truyền thống và phong tục của Phật giáo. Nếu chính phủ Trung Quốc chọn Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 15 mà không bị phản đối, điều đó sẽ tạo tiền lệ cho ĐCSTQ khẳng định các ứng cử viên của mình là người đứng đầu tăng đoàn, hay các tu viện, ở các quốc gia Phật giáo khác.

Như người ta thường nói: “Im lặng là đồng lõa.” Điều này đúng trong sự tái sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Việc không bảo vệ công lý và tự do tôn giáo sẽ không chỉ khuyến khích một chế độ bành trướng mà còn có nguy cơ gây bất ổn ở châu Á và các quốc gia Phật giáo, có thể cho cả nam và bắc bán cầu. Thay vào đó, các chính phủ trên khắp thế giới nên có lập trường về vấn đề nguyên tắc này. Phật tử Tây Tạng có quyền lựa chọn người lãnh đạo tinh thần của mình và việc phát huy quyền đó là điều cần thiết để bảo vệ nhân quyền cho tất cả mọi người.

 Trần Lương Ngọc  chuyển ngữ

© Học Viện Công Dân November 2023

Nguồn: https://www.foreignaffairs.com/china/battle-soul-dalai-lama-tibet