fbpx

Kinh Doanh - Kinh Tế - Chính Trị

Đảng đã thất bại

Một người trong Đảng đoạn tuyệt với Bắc Kinh

Cai Xia (Thái Hà) là một nhà bất đồng chính kiến và học giả về lý luận chính trị của Trung Quốc. Bà đã giảng dạy cho các thành viên và quan chức cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), bao gồm các các người lãnh đạo cấp tỉnh và thành phố và các bộ trưởng, đồng thời là giáo sư đã nghỉ hưu của Trường Đảng Trung ương ĐCSTQ. Bà là người ủng hộ tự do hóa chính trị ở Trung Quốc và là người chỉ trích Tổng Bí thư ĐCSTQ Tập Cận Bình. Bà bị khai trừ khỏi ĐCSTQ vào tháng 8 năm 2020 vì đã chỉ trích ĐCSTQ dưới sự cai trị của ông Tập. Từ năm 2019, bà đã sống lưu vong ở Hoa Kỳ.

 

KHI TẬP CẬN BÌNH LÊN CẦM QUYỀN VÀO NĂM 2012, tôi tràn đầy hy vọng cho Trung Quốc. Là giáo sư tại trường danh tiếng đào tạo các nhà lãnh đạo hàng đầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), tôi đủ hiểu biết về lịch sử để kết luận rằng đã quá muộn để Trung Quốc cải cách hệ thống chính trị. Sau một thập kỷ trì trệ, ĐCSTQ cần cải cách hơn bao giờ hết, và ông Tập, người từng tỏ ý có khuynh hướng cải tổ, có thể là người sẽ đi tiên phong trong công cuộc đó .

Vào lúc đó, tôi đang ở giữa một giai đoạn kéo dài hàng thập kỷ vật lộn với ý thức hệ chính thống của Trung Quốc, ngay cả khi tôi đang phụ trách việc giáo hoá tư tưởng đào tạo huấn luyện cho các quan chức trong Đảng. Từng là một người nhiệt thành theo chủ nghĩa Marx, tôi đã từ bỏ chủ nghĩa Marx và ngày càng hướng tới tư tưởng Tây phương để tìm câu trả lời cho các vấn đề của Trung Quốc. Từng là một người tự hào bảo vệ chính sách chính thống, tôi bắt đầu nghiêng về tự do hóa. Từng là một đảng viên trung thành của ĐCSTQ, tôi đã âm thầm nghi ngờ sự chân thành của niềm tin của người dân đối với Đảng và sự quan tâm của Đảng đối với người dân Trung Quốc.

Vì vậy, đáng lẽ tôi không ngạc nhiên khi thấy ông Tập không phải là nhà cải cách. Trong suốt nhiệm kỳ của ông, chế độ đã thoái hóa sâu hơn thành một chế độ quả đầu chính trị [cai trị bởi một nhóm người]nhằm nắm quyền lực bằng bạo lực và tàn nhẫn. Chế độ còn trở nên áp bức và độc tài hơn. Tệ nạn sùng bái cá nhân bao quanh ông Tập, người đã gia tăng sự kìm kẹp của Đảng đối với ý thức hệ và lãnh vực chật hẹp còn lại dành cho thảo luận chính trị và xã hội dân sự. Những người không sống ở Trung Quốc đại lục trong tám năm qua khó có thể hiểu được chế độ này đã trở nên tàn bạo như thế nào, và đã gây ra bao nhiêu bi kịch thầm lặng trong nước. Sau khi lên tiếng phản đối hệ thống chính trị, tôi biết rằng tôi không còn an toàn khi sống ở Trung Quốc.

 GIÁO DỤC CỦA MỘT NGƯỜI CỘNG SẢN

Tôi sinh ra trong một gia đình quân nhân Cộng sản. Năm 1928, khi bắt đầu cuộc Nội chiến Trung Quốc, ông ngoại tôi tham gia cuộc khởi nghĩa nông dân do Mao Trạch Đông lãnh đạo. Khi những người Cộng sản và những người Quốc dân Đảng tạm ngưng chiến trong Thế chiến thứ hai, cha mẹ tôi và phần lớn gia đình mẹ tôi đã chiến đấu chống lại quân xâm lược Nhật Bản trong đội quân do ĐCSTQ lãnh đạo.

Sau chiến thắng của những người Cộng sản, vào năm 1949, cuộc sống của một gia đình cách mạng như chúng tôi rất tốt. Cha tôi chỉ huy một đơn vị Quân Giải phóng Nhân dân gần Nam Kinh, và mẹ tôi điều hành một văn phòng trong chính quyền thành phố đó. Cha mẹ tôi cấm hai chị em tôi lợi dụng những đặc quyền của cơ quan , kẻo chúng tôi thoái hóa thành những “tiểu thư tư sản thoái hóa”. Chúng tôi không được đi trên chiếc ôtô công vụ của cha tôi, và các cận vệ của ông không bao giờ làm việc vặt trong gia đình. Tuy nhiên, tôi được hưởng lợi từ địa vị của cha mẹ mình và không bao giờ phải chịu thiếu thốn như nhiều người Trung Quốc đã phải trải qua vào những năm tháng dưới thời Mao. Tôi đã không biết gì về hàng chục triệu người chết đói trong thời kỳ Đại Nhảy Vọt.

Tôi chỉ nhìn thấy tương lai tươi sáng của chủ nghĩa xã hội. Giá sách của gia đình tôi chứa đầy những sách của chủ nghĩa Marx như “Tuyển tập Stalin” và “Sách Cần đọc cho Cán bộ”. Khi còn là thiếu niên, tôi đã đọc những cuốn sách này. Bất cứ khi nào mở các sách đó ra, tôi đều tràn ngập sự tôn kính. Mặc dù tôi không thể hiểu hết được lập luận phức tạp trong trong sách, nhưng bổn phận của tôi rất rõ ràng: Tôi phải yêu Tổ quốc, kế thừa di sản cách mạng của cha mẹ tôi và xây dựng một xã hội cộng sản không còn bóc lột. Tôi là một tín đồ chân chính.

Tôi hiểu biết sâu sắc hơn về tư tưởng cộng sản sau khi gia nhập Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc(PLA) vào năm 1969, ở tuổi 17. Với cuộc Cách mạng Văn hóa đang diễn ra sôi nổi, Mao bắt buộc mọi người đọc sáu tác phẩm của Karl Marx và Friedrich Engels, trong đó có “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Một đoạn văn đầy không tưởng trong cuốn sách đó đã để lại ấn tượng khó phai trong tôi: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với các giai cấp và đối kháng giai cấp, chúng ta sẽ có một xã hội, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Mặc dù tôi không thực sự hiểu khái niệm về tự do vào lúc đó, nhưng những từ đó cứ lởn vởn trong đầu tôi.

Quân Giải phóng Nhân dân đã phân công tôi làm việc tại một trường quân y. Công việc của tôi là quản lý thư viện, nơi tình cờ lưu trữ các bản dịch tiếng Trung của các tác phẩm “phản động”, chủ yếu là văn học Tây phương và triết học chính trị. Được phân biệt bằng bìa màu xám, những cuốn sách này  chỉ những người trong chế độ mới được đọc để làm quen với các đối thủ ý thức hệ của Trung Quốc, nhưng tôi cũng đã bí mật đọc chúng. Tôi có ấn tượng mạnh nhất đối với tác phẩm The Rise and Fall of the Third Reich  [Sự trỗi dậy và suy tàn của Đế chế thứ ba – Lịch sử Đức Quốc Xã], của nhà báo người Mỹ William Shirer, và một bộ tuyển tập các tiểu thuyết của Liên Xô. Tôi nhận ra rằng có một thế giới tư tưởng bên ngoài các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Marx. Nhưng tôi vẫn tin rằng chủ nghĩa Marx là chân lý duy nhất.

Tôi rời quân ngũ năm 1978 và nhận được một công việc trong tổ chức công đoàn của một nhà máy phân bón quốc doanh ở ngoại ô thành phố Tô Châu. Khi đó, Mao đã qua đời và Cách mạng Văn hóa đã kết thúc. Người kế nhiệm ông, Đặng Tiểu Bình, đang mở ra thời kỳ cải cách và cởi mở, và trong nỗ lực này, ông tuyển dụng một thế hệ cán bộ mới có tư tưởng cải cách để có thể lãnh đạo Đảng trong tương lai. Mỗi chi bộ đảng địa phương phải chọn một vài thành viên để phục vụ trong nhóm này, và chi bộ đảng Tô Châu đã chọn tôi. Tôi được gửi đến học một chương trình hai năm tại Trường Đảng thành phố Tô Châu, nơi tôi và các bạn học cùng nghiên cứu lý thuyết của chủ nghĩa Marx và lịch sử của ĐCSTQ. Chúng tôi cũng được học về các tác phẩm kinh điển của Trung Quốc, một môn học mà chúng tôi đã không được học do sự gián đoạn giáo dục trong cuộc Cách mạng Văn hóa.

Tôi đã đọc kỹ tác phẩm “Tư bản luận” hai lần và thấu triệt những kiến ​​thức cơ bản trong học thuyết của Marx. Điều hấp dẫn tôi nhất là những ý tưởng của Marx về lao động và giá trị —cho rằng giới tư bản tích lũy của cải bằng cách bóc lột người lao động. Tôi cũng bị ấn tượng bởi cách tiếp cận triết học của Marx, chủ nghĩa duy vật biện chứng, khiến ông nhận ra rằng hệ thống chính trị, luật pháp, văn hóa và đạo đức của chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên nền tảng của sự bóc lột kinh tế.

Khi tôi tốt nghiệp, năm 1986, tôi được mời ở lại làm giảng viên của trường, vốn lúc đó đang thiếu biên chế. Tôi đồng ý, và điều này khiến một số lãnh đạo thành phố thất vọng – họ nghĩ rằng tôi có một tương lai đầy hứa hẹn với tư cách là một cán bộ nòng cốt của Đảng. Thay vào đó, công việc mới của tôi đã khởi đầu sự nghiệp của tôi với tư cách là một viện sĩ trong hệ thống giáo huấn ý thức hệ của ĐCSTQ.

SINH VIÊN THÀNH GIÁO SƯ

Đứng đầu hệ thống trường Đảng là Trường Đảng Trung ương ở Bắc Kinh. Từ năm 1933, trường đã đào tạo ra nhiều thế hệ cán bộ cấp cao nhất của ĐCSTQ, những người điều hành bộ máy hành chính của Trung Quốc từ cấp thành phố trở lên. Trường có quan hệ mật thiết với  thành phần ưu tú trong đảng và luôn luôn do một ủy viên trong Bộ Chính trị đứng đầu. (Viện trưởng của trường từ năm 2007 đến năm 2012, không ai khác, chính là Tập).

Tháng Sáu năm 1989, chính quyền đàn áp những người biểu tình ủng hộ dân chủ ở Quảng trường Thiên An Môn, hàng trăm người thiệt mạng. Riêng tôi, tôi kinh ngạc thấy Quân đội Giải phóng Nhân dân đã nổ súng vào các sinh viên, trái ngược với những gì tôi đã được truyền dạy từ thời thơ ấu rằng quân đội bảo vệ nhân dân; chỉ có bọn “ác quỷ” Nhật Bản và bọn phản động Quốc dân Đảng mới giết hại nhân dân.

Sợ hãi các cuộc biểu tình, cộng với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, ban lãnh đạo tối cao của ĐCSTQ quyết định phải chống lại sự lỏng lẻo về ý thức hệ. Ban lãnh đạo ra lệnh cho các trường đảng ở địa phương cử một số giáo viên của họ đến Trường Đảng Trung ương để trau dồi thêm về ý thức hệ của Đảng. Trường tôi ở Tô Châu đã chọn tôi. Thời gian ngắn ngủi ở Trường Đảng Trung ương khiến tôi muốn học ở đó lâu hơn nữa. Sau một năm chuẩn bị cho kỳ thi tuyển sinh, tôi được nhận vào chương trình thạc sĩ khoa lý thuyết của trường. Tôi tận tâm với đường lối của ĐCSTQ đến nỗi sau lưng tôi, các bạn cùng lớp lén gọi tôi là “Bà già Marx”. Năm 1998, tôi nhận bằng Tiến sĩ và gia nhập đội ngũ giảng viên của trường.

Một số sinh viên của tôi là nghiên cứu sinh chính quy, Họ được dạy một chương trình thông thường về lý thuyết chính trị Mác-xít và lịch sử ĐCSTQ. Những người khác là các quan chức cấp trung và cấp cao của Đảng, bao gồm các lãnh đạo cấp tỉnh và thành phố và các bộ trưởng trong Chính phủ. Một số sinh viên của tôi là ủy viên của Trung ương ĐCSTQ, cơ quan gồm vài trăm đại biểu hàng đầu của Đảng có quyền phê chuẩn các quyết định lớn.

Giảng dạy ở Trường Đảng Trung ương không phải dễ. Máy quay video trong các lớp học đã ghi lại bài giảng của chúng tôi, sau đó được giám sát viên của chúng tôi xem lại. Chúng tôi phải làm cho chủ đề trở nên sống động đối với những học viên có kinh nghiệm và trình độ cao trong lớp, mà không diễn giải giáo lý quá linh hoạt hoặc khiến họ chú ý vào những điểm yếu của nó. Thông thường, chúng tôi phải đưa ra những câu trả lời thông minh cho những câu hỏi hóc búa do các  quan chức theo học trong lớp đặt ra.

Hầu hết câu hỏi của họ xoay quanh những mâu thuẫn khó hiểu trong hệ tư tưởng chính thống, được tạo ra để biện minh cho các chính sách trong thế giới thực mà ĐCSTQ thi hành. Các tu chính được bổ sung vào năm 2004 trong Hiến pháp Trung Quốc nói rằng chính phủ bảo vệ nhân quyền và tài sản tư nhân. Nhưng còn quan điểm của Marx rằng một hệ thống cộng sản phải xóa bỏ sở hữu tư nhân thì sao? Đặng muốn “để một bộ phận nhân dân giàu lên trước” để thúc đẩy mọi người và nâng cao năng suất. Làm thế nào mà điều đó phù hợp với hứa hẹn của Marx rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ cung cấp cho mỗi người theo nhu cầu?

Tôi vẫn trung thành với ĐCSTQ, nhưng tôi luôn luôn tự hỏi về niềm tin của chính tôi. Vào thập niên 1980, giới học thuật Trung Quốc đã tham gia vào một cuộc thảo luận sôi nổi về “chủ nghĩa nhân văn Mác-xít”, một trường phái tư tưởng Mác-xít nhấn mạnh sự phát triển toàn diện của nhân cách con người. Một số học giả tiếp tục cuộc thảo luận đó vào thập niên 1990, ngay cả khi phạm vi diễn ngôn có thể chấp nhận được đang dần bị thu hẹp. Tôi đã nghiên cứu “Bản thảo kinh tế và triết học năm 1844”[Economic and Philosophic Manuscripts of 1844] của Marx , trong đó nói rằng mục đích của chủ nghĩa xã hội là giải phóng cá nhân. Tôi đồng quan điểm với các nhà triết học Mác-xít nhấn mạnh vào tự do—nhất là Antonio Gramsci và Herbert Marcuse.

Ngay trong luận văn thạc sĩ của tôi, tôi đã phê phán tư tưởng rằng mọi người phải luôn hy sinh lợi ích cá nhân của mình để phục vụ Đảng. Trong luận văn tiến sĩ của tôi, tôi đã thách thức khẩu hiệu cổ đại của Trung Quốc “phú quốc cường binh” [nước giàu, quân mạnh] bằng cách cho rằng Trung Quốc sẽ chỉ mạnh khi Đảng cho nhân dân trở nên giàu có. Tôi còn khai triển lập luận này hơn nữa. Trong các bài viết và các cuộc nói chuyện, tôi cho rằng các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn quá lấn áp trong nền kinh tế Trung Quốc và cần phải cải cách hơn nữa để cho các công ty tư nhân cạnh tranh. Tôi nhấn mạnh, tham nhũng không nên được coi là sự suy đồi đạo đức của từng cá nhân cán bộ mà là vấn đề mang tính hệ thống do sự kìm kẹp của chính phủ đối với nền kinh tế.

 LÝ THUYẾT VÀ THỰC HÀNH

Suy nghĩ của tôi tình cờ phù hợp với suy nghĩ của người kế nhiệm của Đặng là Giang Trạch Dân. Quyết tâm phát triển kinh tế Trung Quốc, Giang đã tìm cách kích thích doanh nghiệp tư nhân và đưa Trung Quốc vào Tổ chức Thương mại Thế giới. Nhưng những chính sách này mâu thuẫn với lý thuyết cố hữu của ĐCSTQ về nền kinh tế kế hoạch và quốc gia tự cấp tự túc. Vì hệ tư tưởng của cả Marx, Mao và Đặng đều không thể giải quyết những mâu thuẫn này, Giang cảm thấy phải nghĩ ra một cái gì đó mới. Ông gọi nó là thuyết “Tam cá đại biểu” [Ba Đại diện].

Lần đầu tiên tôi và những người khác được biết về lý thuyết mới này. Vào tối ngày 25 tháng 2 năm 2000, tôi xem Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) phát một phóng sự về thuyết “Ba Đại diện”. Giang nói, Đảng phải đại diện cho ba khía cạnh của Trung Quốc: “yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất tiên tiến, tiến bộ văn hóa và lợi ích của đa số ”. Là giáo sư tại Trường Đảng Trung ương, tôi hiểu ngay rằng lý thuyết báo hiệu một sự thay đổi đáng kể trong ý thức hệ của ĐCSTQ. Đặc biệt, điều đầu tiên trong thuyết “Ba Đại diện” ngụ ý rằng Giang đang từ bỏ niềm tin cốt lõi của chủ nghĩa Marx cho các nhà tư bản là một thành phần xã hội bóc lột. Thay vào đó, Giang đón nhận giới tư bản vào đảng—một quyết định mà tôi hoan nghênh.

Ban Tuyên giáo Trung ương, cơ quan phụ trách công tác tư tưởng của ĐCSTQ, chịu trách nhiệm quảng bá học thuyết mới của Giang, nhưng họ gặp phải một vấn đề: lý thuyết “Ba Đại diện” đã bị phe cực tả đả kích , cho rằng Giang đã đi quá xa trong việc o bế giới doanh nhân. Để tránh né cuộc tranh luận này, Ban Tuyên giáo đã chọn cách làm giảm ý nghĩa của lý thuyết này. “Nhân dân Nhật báo” đã đăng một bài báo dài cả trang chứng minh tính đúng đắn của lý thuyết “Ba Đại diện” bằng các trích dẫn từ các tác phẩm của Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao và Đặng.

Tôi thấy điều này không thuyết phục. Mục đích của lý thuyết “Ba Đại diện” là gì nếu nó chỉ đơn thuần là khôi phục lại hệ tư tưởng hiện có? Tôi ghê tởm những phương pháp hời hợt của bộ máy công quyền của Đảng. Tôi đã quyết tâm tiết lộ ý nghĩa thực sự của lý thuyết “Ba Đại diện”, một lý thuyết trên thực tế đã đánh dấu một sự đột phá táo bạo cho Trung Quốc. Điều này sau đó khiến tôi đối nghịch với bộ máy quan liêu cố hữu của ĐCSTQ.

GIỚI ƯU TÚ VÔ HỌC

Cơ hội khiến tôi nâng cao hiểu biết đúng đắn về lý thuyết “Ba Đại diện” đến vào đầu năm 2001, khi CCTV — (Đài truyền hình trung ương Trung Quốc) được một đồng nghiệp cho biết rằng tôi đặc biệt quan tâm đến lý thuyết mới của Giang — đã mời tôi viết một chương trình truyền hình về lý thuyết này. Tôi đã dành sáu tháng để nghiên cứu và viết bộ phim tài liệu và thảo luận về chương trình đó với các nhà sản xuất trong Đài truyền hình.

Kịch bản của tôi nhấn mạnh sự cần thiết phải có chính sách mới sáng tạo để đáp ứng với những thách thức của kỷ nguyên mới. Tôi nhấn mạnh những điều mà ông Giang đã nêu ra: chính phủ sẽ giảm can thiệp vào nền kinh tế và vai trò của Đảng không còn là thực hiện cách mạng bạo lực chống lại tư bản bóc lột nữa – thay vào đó chính phủ khuyến khích tạo ra của cải và cân bằng lợi ích giữa các nhóm khác nhau trong xã hội.

Chiều ngày 16 tháng Sáu, bốn phó chủ tịch cấp cao của CCTV đã tập trung tại một phòng thu hình trong trụ sở của Đài truyền hình để xem lại ba tập phim dài 30 phút. Khi xem phim nét mặt họ sa sầm lại. ”Hãy dừng lại đây”, một người trong số họ nói khi tập đầu tiên kết thúc.

“Giáo sư Thái, bà có biết lý do tại sao bà được mời sản xuất một chương trình về lý thuyết Ba Đại diện không?”, ông ta hỏi.

“Đảng đã đưa ra một lý thuyết mới về ý thức hệ”, tôi trả lời, “và chúng ta cần phải công bố rộng rãi nó”.

Viên quan chức của Đài truyền hình không đổi nét mặt. “Công trình nghiên cứu và sáng kiến của bà có thể được trình chiếu tại Trường Đảng Trung ương, nhưng chỉ những điều an toàn nhất mới được chiếu trên TV”, ông nói. Vào lúc đó, không ai biết chắc thuyết Ba Đại diện rốt cuộc sẽ được hiểu nghĩa là gì, và ông e ngại rằng kịch bản của tôi có thể không đúng với quan điểm của Bộ Trung Tuyên [ Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng] . ”Nếu có bất kỳ sự khác biệt nào, tác động sẽ quá lớn”.

Một quản lý Đài truyền hình khác nói thêm. “Năm nay là kỷ niệm 80 năm Đảng Cộng sản Trung Quốc!”, ông thốt lên. Một lễ kỷ niệm như vậy không đòi hỏi một cuộc thảo luận về những thách thức mà đảng phải đối mặt mà là một lễ lớn tôn vinh những chiến thắng của Đảng. Ngay lúc đó, tôi đã hiểu. Những nhà lãnh đạo của CCTV không quan tâm đến tác động thực sự của ý thức hệ. Họ chỉ muốn tâng bốc đảng và làm hài lòng cấp trên của họ.

Trong mười ngày sau đó, chúng tôi cố gắng làm lại bộ phim tài liệu. Suốt ngày đêm chúng tôi đã chỉnh sửa những từ và cụm từ có thể bị cấm kỵ; kịch bản của tôi phải được duyệt xét và đánh giá chính trị bởi các nhóm từ khắp cơ quan trực thuộc Đảng. Cuối cùng, hơn mười quan chức đến để xem xét lại lần cuối; trong thời gian đó tôi càng biết thêm nhiều điều về thói đạo đức giả của Đảng. Có lúc, một thành viên cấp cao của ủy ban kiểm duyệt đã lên tiếng. Trong tập thứ hai của chương trình, tôi đã trích dẫn hai câu nói nổi tiếng của Đặng, thường được đi đôi với nhau: “Nghèo đói không phải là chủ nghĩa xã hội; phát triển là điều khó”.

“Nghèo đói không phải là chủ nghĩa xã hội?” quan chức nghi ngờ hỏi. ”Vậy chủ nghĩa xã hội là gì?” Và ông tiếp tục lớn tiếng phê bình. ”Và phát triển là điều khó? Hai câu đó có quan hệ với nhau như thế nào? Hãy nói cho tôi biết!”.

Tôi ngạc nhiên hết sức. Đây chính là lời của Đặng, thế mà quan chức cấp cao này—người đứng đầu Cục Quản lý Nhà nước về Phát thanh, Điện ảnh và Truyền hình, cơ quan quyền lực giám sát tất cả các phương tiện truyền thông—không biết điều đó? Tôi nghĩ ngay đến lời chỉ trích của Mao đối với các quan chức trong Cách mạng Văn hóa: “Họ không đọc sách, và họ không đọc báo”.

Ý THỨC HỆ TRỐNG RỖNG

Trong suốt năm 2001, như một phần trong nỗ lực quảng bá lý thuyết Ba Đại diện của Giang, Ban Tuyên giáo đã bắt đầu làm đề cương nghiên cứu về thuyết “Ba Đại diện”, bản tóm tắt sẽ được phổ biến là một tài liệu của Trung ương Đảng để toàn Đảng đọc và thực hiện. Có lẽ vì tôi đã từng làm việc trong chương trình CCTV và đã có bài phát biểu về thuyết “Ba Đại diện” tại một hội nghị khoa học, nên tôi đã được yêu cầu giúp đỡ họ.

Cùng với một học giả khác và 18 quan chức tuyên giáo, tôi được cử đến trung tâm đào tạo của Ban Tuyên giáo gần chân đồi phía Tây Bắc Kinh. Ban Tuyên giáo đã đưa ra đề cương và yêu cầu chúng tôi thêm vào nội dung. Nhiệm vụ của tôi là viết phần xây dựng Đảng.

Soạn thảo các tài liệu cho Trung ương Đảng là một quá trình tuyệt mật. Tôi và các đồng nghiệp bị cấm ra khỏi nhà, hoặc tiếp khách riêng. Khi Ban Tuyên giáo triệu tập cuộc họp, những người không được mời sẽ không được hỏi về việc đó. Tập thể soạn thảo chúng tôi có thể đi ăn và đi dạo cùng nhau, nhưng chúng tôi bị cấm thảo luận về công việc của mình. Tôi là người phụ nữ duy nhất trong nhóm. Vào bữa tối, những người đàn ông nói chuyện phiếm và chuyện tiếu lâm. Tôi thấy cuộc trò chuyện tục tĩu kèm với rượu thường thô bỉ nên sau khi ăn vài miếng tôi thường lẻn đi chỗ khác. Cuối cùng, một người trong nhóm đã kéo tôi ra một góc. Ông giải thích rằng nói chuyện về công việc sẽ chỉ khiến chúng tôi gặp rắc rối; an toàn và vui hơn là giới hạn cuộc trò chuyện trong đề tài trai gái.

Tham gia vào công tác làm đề cương học tập là công việc quan trọng nhất trong cuộc đời tôi, nhưng cũng là việc lố lăng nhất. Công việc của tôi là đọc hết một đống tài liệu liệt kê những tư tưởng của Giang, bao gồm các bài phát biểu và bài viết mật chỉ lưu hành nội bộ trong Đảng. Sau đó, tôi sẽ lấy ra các trích dẫn có liên quan và đặt dưới các tiêu đề phụ của chủ đề khác nhau, rồi dẫn nguồn. Tôi không thể thêm hoặc bớt văn bản, nhưng tôi có thể thay đổi dấu chấm thành dấu phẩy và kết nối một trích dẫn này với một trích dẫn khác. Tôi rất ngạc nhiên rằng việc giải thích chính thức về một trong những chiến dịch tư tưởng quan trọng nhất của Đảng trong thời kỳ hậu Mao chỉ đơn thuần là một công việc cắt dán.

Vì công việc quá dễ, tôi có nhiều thời giờ buồn chán trong khi chờ đợi công việc của mình được kiểm tra lại. Một hôm, tôi hỏi dò ý kiến của một người khác trong nhóm, một giáo sư từ Đại học Nhân Dân Trung Quốc. ”Chẳng phải chúng ta vừa tạo một phiên bản khác của tập “Mao chủ tịch ngữ lục” sao?”, tôi hỏi, nhắc đến cuốn “Hồng bảo thư”, một tập sách bỏ túi gồm những câu răn bảo dẫn chứng ngoài ngữ cảnh được lưu hành trong Cách mạng Văn hóa. Ông nhìn quanh và cười nhạt. ”Đừng thắc mắc về điều đó”, ông nói với tôi. ”Mình đang được ở một nơi phong cảnh đẹp, thức ăn ngon và có những cuộc đi dạo thú vị. Có nơi nào mình được nghỉ ngơi thoải mái như vậy? Chỉ cần đi tìm một cuốn sách để đọc. Điều quan trọng là có mặt ở đây khi họ gọi đi họp”.

Vào tháng Sáu năm 2003, một cuộc họp báo cấp cao đã được tổ chức tại Nhân Dân Đại Hội Đường, ở Bắc Kinh, để công bố đề cương nghiên cứu, và tất cả chúng tôi, những người đã tham gia soạn thảo đều được yêu cầu tham dự. Liu Yunshan [Lưu Vân Sơn], Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trình bày báo cáo. Khi ông và các quan chức khác bước lên sân khấu, tôi cảm thấy hoàn toàn thất vọng. Sự hiểu biết của tôi về thuyết “Ba Đại diện” như một trục then chốt trong ý thức hệ của đảng cầm quyền đã bị loại bỏ hoàn toàn khỏi tài liệu và thay thế bằng những luận điệu rỗng tuếch.

Nhớ lại các câu chuyện tục tĩu xung quanh bàn ăn mỗi tối, lần đầu tiên tôi cảm thấy cái hệ thống mà tôi coi là thiêng liêng bấy lâu nay thực ra lại ngu xuẩn đến mức không thể chịu nổi.

TƯ TƯỞNG  BÁN RAO

Kinh nghiệm của tôi với đề cương nghiên cứu đã dạy tôi rằng những ý tưởng mà Đảng tôn vinh một cách thần thánh thực chất là những công cụ lợi cho Đảng được sử dụng để đánh lừa người dân Trung Quốc. Tôi sớm biết rằng các tư tưởng cũng là một cách kiếm tiền. Một quan chức mà tôi biết tại Tổng cục Báo chí và Xuất bản, cơ quan kiểm soát quyền xuất bản sách và tạp chí, đã nói với tôi về một tình tiết đáng lo ngại liên quan đến cuộc tranh giành doanh thu xuất bản trong ĐCSTQ.

Trong nhiều năm, Nhà xuất bản “Cờ hồng” là một trong ba tổ chức chịu trách nhiệm xuất bản sách giáo dục của đảng. Vào năm 2005, báo chí đang sắp sửa xuất bản một cuốn sách đọc thông thường thì một quan chức của Ban Tổ chức Trung ương, cơ quan quyền lực phụ trách các quyết định về nhân sự của ĐCSTQ, đã xen vào để khẳng định rằng chỉ có Ban của ông ta mới có quyền xuất bản loại sách như vậy. Ông đã cố gắng yêu cầu Tổng cục Báo chí và Xuất bản ngăn cản cuốn sách xuất bản. Nhưng công việc chính của Nhà xuất bản “Cờ hồng” chính xác là xuất bản các tác phẩm về ý thức hệ. Để thoát khỏi vấn đề rắc rối này, cơ quan đã xem kỹ lại cuốn sách với hy vọng tìm ra các vấn đề có thể biện minh cho việc cấm xuất bản —nhưng thật khó xử, vì không thấy có vấn đề gì.

Tại sao Ban Tổ chức lại xen vào việc xuất bản? Chung quy chỉ là vấn đề tiền bạc. Nhiều cơ quan có các quỹ đen, được sử dụng cho việc hưởng thụ xa hoa của các quan chức cấp cao và được chia cho các nhân viên dưới dạng “trợ cấp phúc lợi”. Cách dễ nhất để có thêm tiền cho quỹ đen là xuất bản sách. Vào thời điểm đó, ĐCSTQ có hơn 3, 6 triệu chi bộ cơ sở, mỗi chi bộ đều phải mua một ấn phẩm mới phát hành. Nếu sách được định giá 10 nhân dân tệ một cuốn, thì khi bán có thể thu vào ít nhất là 36 triệu nhân dân tệ — tương đương hơn 5 triệu đô-la ngày nay. Vì số tiền đó đến từ ngân sách của các chi bộ Đảng, nên mánh khóe này cơ bản là hình thức buộc một cơ quan nhà nước này chuyển tiền cho một cơ quan khác. Hèn chi mỗi năm Phòng Tổ chức lại đưa ra  một chủ đề học tập chính trị mới. Và không có gì lạ khi hầu hết mọi Đảng bộ trực thuộc ĐCSTQ đều có một bộ phận xuất bản. Vì gần như đơn vị nào cũng phát minh ra những cách kiếm tiền mới, nạn tham ô đã lan tràn trong chế độ.

Mặc dầu ngày càng vỡ mộng, tôi không hoàn toàn từ bỏ đảng. Cùng với nhiều học giả khác trong trường, tôi vẫn hy vọng rằng ĐCSTQ có thể tiếp nhận cải cách và chuyển theo hướng của một hình thức dân chủ nào đó. Trong những năm cuối của thời kỳ Giang Trạch Dân, Đảng bắt đầu cho phép thảo luận tương đối thoải mái về các vấn đề nhạy cảm trong Đảng, miễn là các cuộc thảo luận này không bao giờ diễn ra công khai. Tại Trường Đảng Trung ương, tôi và các giáo sư đồng nghiệp cảm thấy thoải mái khi nêu ra những vấn đề sâu xa trong hệ thống chính trị Trung Quốc. Chúng tôi đã nói về việc giảm bớt vai trò của các quan chức Đảng trong việc quyết định các vấn đề hành chính mà đáng lẽ nên để cho các viên chức nhà nướclàm thì tốt hơn. Chúng tôi đã thảo luận về ý tưởng độc lập tư pháp, đã được ghi vào Hiến pháp nhưng chưa bao giờ được thực thi.

Chúng tôi rất vui, quả thực Đảng đang thử nghiệm dân chủ hóa, cả trong hoạt động của chính mình và trong các tổ chức ở cấp cơ sở. Tôi thấy tất cả những điều này là những dấu hiệu đầy hy vọng của sự tiến bộ. Nhưng những sự kiện sau đó đã khiến tôi hoàn toàn vỡ mộng.

MỘT CON ĐƯỜNG KHÁC

Một bước ngoặt quan trọng đến vào năm 2008, khi tôi có một chuyến đi ngắn ngủi nhưng định mệnh đến Tây Ban Nha. Đến thăm đất nước này trong khuôn khổ trao đổi học thuật, tôi biết được cách Tây Ban Nha đã chuyển đổi từ chế độ chuyên quyền sang dân chủ sau cái chết của nhà độc tài Francisco Franco vào năm 1975. Tôi không thể không so sánh kinh nghiệm của Tây Ban Nha với Trung Quốc. Mao qua đời chỉ mười tháng sau Franco, và cả hai quốc gia đã trải qua những thay đổi lớn lao trong ba thập kỷ sau đó. Nhưng trong khi Tây Ban Nha thực hiện bước nhảy vọt lên dân chủ một cách nhanh chóng và hòa bình, đạt được sự ổn định xã hội và thịnh vượng về kinh tế, thì Trung Quốc chỉ hoàn thành một bước chuyển đổi một phần, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế hỗn hợp mà không tự do hóa nền chính trị. Tây Ban Nha có thể dạy điều gì cho Trung Quốc?

Tôi đã đi đến kết luận bi quan rằng ĐCSTQ không có khả năng cải cách chính trị. Có điều, quá trình chuyển đổi của Tây Ban Nha được khởi xướng bởi các lực lượng cải cách trong chế độ hậu Franco, chẳng hạn như Vua Juan Carlos đệ nhất, người đã đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích cá nhân của họ. ĐCSTQ, lên nắm quyền vào năm 1949 thông qua bạo lực, đã bị gắn chặt vào ý tưởng rằng nó đã giành được độc quyền vĩnh viễn về quyền lực chính trị. Thành tích của Đảng, đặc biệt là việc đàn áp các cuộc biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn, chứng tỏ rằng họ sẽ không từ bỏ độc quyền đó một cách hòa bình. Và không một nhà lãnh đạo nào sau Đặng có đủ can đảm để thúc đẩy cải cách chính trị; họ chỉ muốn đẩy trách nhiệm đó cho các nhà lãnh đạo tương lai.

Tôi cũng được biết sau cái chết của Franco, Tây Ban Nha đã nhanh chóng tạo ra một môi trường thuận lợi để cải cách, củng cố độc lập tư pháp và mở rộng quyền tự do báo chí. Họ còn kết hợp các lực lượng đối lập vào quá trình chuyển đổi. Ngược lại, ĐCSTQ đã coi những đòi hỏi về công bằng xã hội và kinh tế là những mối đe dọa đối với quyền lực của nó, đàn áp xã hội dân sự và hạn chế quyền tự do của người dân. Chế độ và người dân đã bị khóa trong thế đối đầu trong nhiều thập kỷ, khiến cho việc hòa giải trở nên không thể nào thực hiện được.

Sự hiểu biết mới có được của tôi về quá trình chuyển đổi dân chủ ở Tây Ban Nha, cùng với những gì tôi đã biết về những người trong khối Liên Xô cũ, đã khiến tôi từ bỏ cơ bản hệ tư tưởng Mác-xít mà tôi đã từng có niềm tin không thể lay chuyển. Tôi nhận ra rằng những lý thuyết mà Marx đưa ra trong thế kỷ XIX bị giới hạn bởi trí tuệ của chính ông và hoàn cảnh lịch sử của thời đại ông. Hơn nữa, tôi thấy rằng phiên bản của chủ nghĩa Marx mang tính áp bức, tập trung cao do ĐCSTQ quảng bá chịu ảnh hưởng của Stalin nhiều hơn là chính Marx. Tôi ngày càng nhận ra đó là một hệ tư tưởng được hình thành để phục vụ cho một chế độ độc tài tư lợi. Chủ nghĩa Marx—tôi bắt đầu gợi ý trong các ấn phẩm và bài giảng—không thể được tôn thờ như một chân lý tuyệt đối, và Trung Quốc phải bắt đầu hành trình đi đến dân chủ. Vào năm 2010, khi một số học giả theo chủ nghĩa tự do xuất bản một tập sách đã được biên tập có tên “Hướng tới chủ nghĩa hiến định”, tôi đã đóng góp một bài thảo luận về kinh nghiệm của người Tây Ban Nha.

Viễn kiến của tôi—cùng với các học giả khác theo chủ nghĩa tự do—là Trung Quốc sẽ bắt đầu bằng cách thực hiện dân chủ trong Đảng, và về lâu dài, sẽ dẫn đến một nền dân chủ hiến định. Trung Quốc sẽ có một quốc hội, thậm chí là một đảng đối lập thực sự. Trong thâm tâm, tôi lo rằng ĐCSTQ có thể chống lại một cách thô bạo quá trình chuyển đổi như vậy, nhưng tôi vẫn giữ ý nghĩ đó cho riêng mình. Thay vào đó, khi nói chuyện với các đồng nghiệp và sinh viên, tôi lập luận rằng sự chuyển đổi như vậy sẽ tốt cho Trung Quốc và ngay cả cho Đảng, vì Đảng có thể củng cố tính chính danh của nó bằng cách khiến mình có trách nhiệm hơn với người dân. Nhiều quan chức tôi từng dạy thừa nhận rằng Đảng phải đối mặt với những vấn đề, nhưng họ không thể nói ra. Thay vào đó, họ thận trọng khích lệ tôi thuyết phục cấp trên của họ.

NỖI THẤT VỌNG VỀ TẬP

Vấn đề là vào thời điểm đó, người kế nhiệm ông Giang, Hồ Cẩm Đào, đang đi theo hướng ngược lại. Năm 2003, khi đang trong quá trình tiếp quản quyền lực, Hồ đã đưa ra “Triển vọng Khoa học về Phát triển”, thay thế lý thuyết Ba Đại diện của Giang. Khái niệm này là một nỗ lực khác nhằm biện minh cho mô hình phát triển hỗn hợp của Trung Quốc với lớp vỏ mỏng là hệ tư tưởng mang âm hưởng Mác-xít, và nó tránh được những vấn đề lớn mà Trung Quốc phải đối mặt. Sự phát triển chóng mặt của Trung Quốc đã tạo ra xung đột xã hội khi đất đai của nông dân bị truất hữu để phát triển và các nhà máy bóc lột công nhân để kiếm thêm lợi nhuận. Số lượng người khiếu kiện đòi chính phủ giải quyết tăng đáng kể, và trên toàn quốc, các cuộc biểu tình cuối cùng đã vượt quá 100.000 vụ mỗi năm. Đối với tôi, sự bất mãn cho thấy Trung Quốc ngày càng khó phát triển kinh tế nếu không tự do hóa nền chính trị.

Hồ nghĩ khác. Vào năm 2008, tại một buổi lễ kỷ niệm 30 năm chính sách cải cách và mở cửa, ông nói: “Đừng làm rối tung mọi thứ.” Tôi hiểu điều này có nghĩa là những cải cách về kinh tế, chính trị và ý thức hệ mà Đảng đã thực hiện cho đến nay nên được duy trì nhưng không được đẩy mạnh. Hồ đang tự bảo vệ mình trước những cáo buộc từ cả hai phía: từ những người bảo thủ nghĩ rằng cải cách đã đi quá xa và từ những người theo chủ nghĩa tự do nghĩ rằng nó chưa đi đủ xa. Vì vậy, Trung Quốc, dưới sự cai trị của ông, bước vào thời kỳ trì trệ chính trị, một sự suy thoái tương tự như những gì Liên Xô đã trải qua dưới thời Leonid Brezhnev.

Vì vậy, với niềm lạc quan, tôi đã hi vọng vào Tập khi biết rõ rằng ông ấy sẽ nắm quyền. Những cải cách dễ đều đã được thực hiện cách đây 30 năm; bây giờ là lúc phải đối diện với các cải cách khó. Với danh tiếng của cha ông Tập [Tập Trọng Huân], một cựu lãnh đạo ĐCSTQ với khuynh hướng tự do và phong cách linh hoạt mà chính ông Tập đã thể hiện trong các chức vụ trước, tôi và những người ủng hộ cải cách khác hy vọng rằng nhà lãnh đạo mới của chúng tôi sẽ có can đảm thực hiện những thay đổi táo bạo đối với hệ thống chính trị của Trung Quốc. Nhưng không phải ai cũng đặt niềm tin vào ông Tập như vậy. Những người hoài nghi mà tôi biết thuộc hai loại. Cả hai đều được chứng minh là đã biết trước.

Nhóm đầu tiên bao gồm các thái tử—con cháu của những người sáng lập đảng. Ông Tập là một thái tử, cũng như Bạc Hy Lai, Bí thư Thành ủy năng động của Trùng Khánh. Ông Tập và ông Bạc gần như cùng lúc lên các chức vụ cấp tỉnh và cấp bộ trưởng, và cả hai đều được cho là sẽ tham gia vào cơ quan cao nhất của ĐCSTQ, Thường vụ Bộ Chính trị, và được coi là những ứng viên hàng đầu để lãnh đạo Trung Quốc. Nhưng Bạc đã bị loại khỏi cuộc cạnh tranh lãnh đạo vào đầu năm 2012, khi ông bị dính líu đến vụ  vợ của ông sát hại một doanh nhân người Anh, và các nhân vật cấp cao của Đảng đã ủng hộ ông Tập cho chắc và an toàn . Các thái tử mà tôi biết, quen thuộc với sự hung hiểm của ông Tập, dự đoán rằng sự cạnh tranh sẽ không kết thúc ở đó. Thật vậy, sau khi ông Tập lên nắm quyền, ông Bạc bị kết tội tham nhũng, tước hết tài sản và bị kết án tù chung thân.

Nhóm những người hoài nghi khác bao gồm các học giả trong Trường Đảng. Hơn một tháng trước Đại hội Đảng lần thứ 18 vào tháng 11 năm 2012, khi ông Tập chính thức được công bố làm Tổng Bí thư mới của ĐCSTQ, tôi đã nói chuyện với một phóng viên kỳ cựu của một tạp chí lớn của Trung Quốc và một giáo sư hàng đầu ở trường tôi, người đã quan sát sự nghiệp của ông Tập trong một quãng thời gian dài. Hai người vừa kết thúc một cuộc phỏng vấn, và trước khi rời đi, phóng viên đã đặt ra một câu hỏi: “Tôi nghe nói rằng Tập Cận Bình đã sống trong khuôn viên Trường Đảng Trung ương một thời gian. Bây giờ ông ấy sắp trở thành tổng bí thư của đảng. Ông nghĩ gì về ông ấy?”. Môi của vị giáo sư giật giật, và ông ta nói với vẻ khinh bỉ rằng ông Tập là kẻ “thiếu kiến ​​thức.” Phóng viên và tôi đã ngỡ ngàng trước lời tuyên bố thẳng thừng này.

Bất chấp những quan điểm tiêu cực này, tôi sẵn sàng tạm gác mối nghi ngờ và đặt hy vọng vào Tập. Nhưng ngay sau khi ông Tập lên ngôi, tôi bắt đầu nghi ngờ. Một bài diễn văn vào tháng 12 năm 2012 của ông đã gợi ý một tinh thần cải cách và tiến bộ, nhưng các phát biểu khác lại ám chỉ sự quay ngược trở lại thời kỳ trước cải cách. Ông Tập ngả sang phái tả hay phái hữu? Tôi vừa nghỉ hưu ở Trường Đảng Trung ương, nhưng tôi vẫn giữ liên lạc với các đồng nghiệp cũ. Một lần khi tôi nói chuyện với một số người trong số họ về kế hoạch của ông Tập, một người trong số họ nói, “Không phải là vấn đề liệu ông Tập thiên tả hay thiên hữu mà là ông ấy thiếu khả năng phán đoán cơ bản và nói một cách phi logic.” Mọi người im lặng. Một cơn ớn lạnh chạy dọc xương sống tôi. Với những khiếm khuyết như thế, làm sao chúng ta có thể mong đợi ông lãnh đạo một cuộc đấu tranh nhằm cải cách chính trị?

Tôi sớm kết luận rằng chúng tôi có lẽ không thể mong đợi như vậy. Sau khi ông Tập công bố kế hoạch cải cách toàn diện của mình vào cuối năm 2013, giới kinh doanh và giới học giả đã hào hứng dự đoán rằng ông sẽ thúc đẩy những cải cách lớn. Cảm giác của tôi hoàn toàn ngược lại. Kế hoạch này đã tránh né tất cả các vấn đề then chốt của cải cách chính trị. Các vấn đề lâu dài của Trung Quốc về tham nhũng, nợ công chồng chất và các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ bắt nguồn từ việc các quan chức trong Đảng có quyền can thiệp vào các quyết định kinh tế mà không có sự giám sát công khai. Muốn tự do hóa nền kinh tế mà lại thắt chặt kiểm soát chính trị là mâu thuẫn. Tuy nhiên, ông Tập đã phát động một chiến dịch ý thức hệ lớn nhất kể từ khi Mao qua đời để phục hồi sự thống trị của chủ nghĩa Mao.

Kế hoạch của ông đòi tăng cường giám sát xã hội và đàn áp tự do ngôn luận. Lệnh cấm đối với bất kỳ cuộc thảo luận nào về dân chủ hiến định và các giá trị phổ quát đã được quảng bá một cách trơ trẽn dưới chiêu bài “trị nước, quản lý, phục vụ và luật pháp.”

Xu hướng này tiếp tục với một loạt các cải cách pháp lý được thông qua vào năm 2014, điều này càng cho thấy ý định của Đảng trong việc dùng pháp luật như một công cụ để duy trì chế độ toàn trị. Tại thời điểm này, khuynh hướng hủ bại của ông Tập và sự thoái hóa chính trị của ĐCSTQ đã rõ ràng. Nếu trước kia tôi từng có một hy vọng mơ hồ vào ông Tập và Đảng thì giờ đây những ảo tưởng của tôi đã tan vỡ. Những sự kiện sau đó chỉ khẳng định rằng khi nói đến cải cách, ông Tập đã đưa Trung Quốc từ trì trệ đến thoái hóa. Trong năm 2015, Đảng đã huy động hàng trăm luật sư bào chữa. Năm tiếp theo, đảng lại phát động một chiến dịch theo phong cách Cách mạng Văn hóa chống lại một ông trùm bất động sản lớn tiếng công kích. Chính phản ứng của tôi với thời kỳ đó đã khiến tôi gặp rắc rối.

GIỌT NƯỚC LÀM TRÀN LY

Nhà tài phiệt Ren Zhiqiang [Nhậm Chí Cường] ngày càng đối nghịch với ông Tập, người bị ông chỉ trích vì kiểm duyệt truyền thông Trung Quốc. Vào tháng 2 năm 2016, một trang mạng của ĐCSTQ đã kết tội ông Nhậm là “chống Đảng.” Cá nhân tôi không biết ông Nhậm, nhưng trường hợp của ông khiến tôi đặc biệt lo lắng vì từ lâu tôi đã dựa vào nguyên tắc rằng trong ĐCSTQ, chúng tôi được phép—và còn được khuyến khích—tự do phát ngôn để giúp Đảng sửa những sai lầm của chính mình. Đây là một thành viên lâu năm trong Đảng đã bị liệt vào hạng ma quỷ vì làm điều đó. Trải qua thời kỳ Cách mạng Văn hóa, tôi biết rằng những người bị gắn cho nhãn hiệu  “chống Đảng” đã bị tước đoạt quyền lợi và bị bức hại khắc nghiệt. Vì bài viết bênh vực ông Nhậm không bao giờ có thể được công bố trên các phương tiện truyền thông bị kiểm duyệt, tôi đã viết một bài và gửi đến một nhóm WeChat, hy vọng bạn bè của tôi sẽ chia sẻ nó với những người quen biết của họ. Bài báo của tôi đã được phổ biến nhanh chóng.

Mặc dù hầu hết các bài báo của tôi chỉ trích dẫn Hiến chương và quy tắc ứng xử của Đảng, nhưng Ủy ban kỷ luật của Trường Đảng Trung ương đã buộc tội tôi có những sai sót nghiêm trọng. Tôi đã phải đối mặt với một loạt các cuộc thẩm vấn đáng sợ, trong đó những người thẩm vấn tôi dùng áp lực tâm lý và đặt bẫy bằng ngôn ngữ để khiến tôi phải thú nhận giả tạo về hành động sai trái. Điều này thật không thoải mái, nhưng tôi nhận ra quá trình này là một cuộc đấu trí. Tôi nhận ra rằng, nếu tôi không tỏ ra sợ hãi họ sẽ thua một nửa trận đấu. Thế là một cuộc bế tắc xảy ra sau đó: Tôi tiếp tục xuất bản, và chính quyền tiếp tục gọi tôi đến để thẩm vấn. Tôi hiểu ngay rằng các cơ quan an ninh đang nghe lén điện thoại của tôi, đọc thư từ kỹ thuật số của tôi và theo dõi tôi để xem tôi đã đi đâu và gặp ai. Các giáo sư đã nghỉ hưu từ Trường Đảng Trung ương thường chỉ cần nhà trường cho phép đi du lịch Hồng Kông hoặc nước ngoài, nhưng bây giờ nhà trường ám chỉ rằng trong tương lai những chuyến đi như vậy tôi phải xin Bộ Công an chấp thuận.

Vào tháng 4 năm 2016, nội dung của một bài thuyết trình của tôi vài tháng trước đó tại Đại học Thanh Hoa—trong đó tôi lập luận rằng nếu ý thức hệ đi nguợc với lẽ thường, nó sẽ trở nên dối trá—đã được phổ biến trên một trang mạng có ảnh hưởng ở Hồng Kông. Thời điểm đó thật tồi tệ: ông Tập vừa tuyên bố rằng một số cuộc điều nghiên tại Trường Đảng Trung ương đã đi quá xa và yêu cầu phải giám sát chặt chẽ hơn các giáo sư. Kết quả là vào đầu tháng 5, tôi lại bị Hội đồng kỷ luật của trường gọi vào và buộc tội chống đối ông Tập. Kể từ đó, ĐCSTQ đã không cho tôi phát biểu trên các phương tiện truyền thông ở Trung Quốc—sách báo, mạng, truyền hình. Ngay cả tên của tôi cũng không được nhắc đến. Sau đó, vào một đêm tháng Bảy, tôi lại được triệu tập đến một cuộc họp tại Trường Đảng Trung ương, nơi mà một thành viên của Ủy ban kỷ luật đặt một chồng tài liệu cao đến hơn 30 phân trên bàn trước mặt tôi. “ Đã có rất nhiều tài liệu về bạn”, ông ta nói. “Hãy nghĩ lại đi”. Rõ ràng là tôi đã bị cảnh cáo để giữ im lặng và nếu tôi phổ biến một từ nhạy cảm nào đó quá nhiều, tôi sẽ phải chịu hình thức kỷ luật, bao gồm cả việc giảm trợ cấp hưu trí. Tôi phẫn nộ với cách đối xử đối với tôi, mặc dù tôi hiểu rằng những người khác còn bị đối xử khắc nghiệt hơn.

Trong các năm là đảng viên của ĐCSTQ, tôi chưa bao giờ vi phạm một luật lệ nào, cũng như chưa bao giờ bị khiển trách. Nhưng bây giờ, tôi thường xuyên bị thẩm vấn bởi các quan chức của Đảng. Hội đồng kỷ luật của trường liên tục đe dọa với viễn cảnh nhục nhã là sẽ tổ chức một cuộc họp công khai lớn và công bố hình phạt chính thức. Khi kết thúc mỗi cuộc đối thoại, những người thẩm vấn đều yêu cầu tôi giữ bí mật. Tất cả đều là một phần của thế giới ngầm không thể được phơi bầy ra ánh sáng

Sau đó, một vụ che đậy sự tàn bạo của cảnh sát đã dẫn đến cuộc chia tay cuối cùng của tôi với Tập và với Đảng. Trước đó, vào tháng 5 năm 2016, Lei Yang [Lôi Dương], một nhà khoa học môi trường, trên đường đến sân bay để đón mẹ vợ, đã chết trong một cách mờ ám trong khi bị cảnh sát Bắc Kinh giam giữ. Để trốn tránh trách nhiệm về tội ác, cảnh sát đã buộc tội Lôi gạ gẫm một gái mại dâm. Những người bạn của ông từ khi còn học ở đại học, phẫn nộ trước mưu toan bôi nhọ này, đã họp nhau lại để giúp gia đình ông đòi lại công lý, và họ bắt đầu một chiến dịch gây tiếng vang khắp Trung Quốc. Để dập tắt cơn thịnh nộ, các nhà lãnh đạo cao nhất của ĐCSTQ đã ra lệnh điều tra. Bên công tố đồng ý cho tiến hành khám nghiệm tử thi độc lập và một phiên tòa đã được ấn định để xét xử vụ này.

Tiếp theo đó xảy ra một điều kỳ lạ: cha mẹ, vợ và con của Lôi bị quản thúc tại gia, và chính quyền địa phương đề nghị bồi thường rất lớn, khoảng 1 triệu USD, để họ từ bỏ việc theo đuổi tìm ra sự thật. Khi gia đình Lôi từ chối, khoản bồi thường đã được tăng lên 3 triệu USD.  Ngay cả sau khi được hứa cho ngôi nhà trị giá 3 triệu USD vợ của Lôi vẫn kiên quyết đòi làm tỏ thanh danh cho người chồng quá cố. Chính quyền sau đó đã gây áp lực với cha mẹ của Lôi, bắt họ quỳ gối trước con dâu và xin bà ấy từ bỏ vụ việc. Vào tháng 12, các công tố viên thông báo rằng họ sẽ không buộc tội bất kỳ ai về cái chết của Lôii, và luật sư gia đình của ông tiết lộ rằng ông ta đã bị buộc phải từ chối tham gia biện hộ.

Khi biết được kết cục này, tôi đã ngồi vào bàn làm việc cả đêm, đau buồn và tức giận. Cái chết của Lôi là một trường hợp sai trái rõ ràng, thế mà thay vì trừng phạt các viên chức cảnh sát chịu trách nhiệm, cấp trên của họ đã mưu toan dùng tiền đóng thuế của người dân làm ăn khó nhọc để giải quyết vấn đề không cần tòa án phân xử. Các quan chức đang che chở cho nhau hơn là phục vụ nhân dân. Tôi tự hỏi nếu các quan chức của ĐCSTQ có thể làm những hành động đê hèn như vậy, thì làm sao có thể tin cậy Đảng được? Điều quan trọng hơn cả, tôi tự hỏi làm thế nào tôi có thể tiếp tục là một phần của hệ thống này. Sau 20 năm do dự, bối rối và đau khổ, tôi đã quyết định ra khỏi nơi đen tối và đoạn tuyệt hoàn toàn với Đảng. Bước nhảy vọt thụt lùi vĩ đại của ông Tập đã sớm khiến tôi không còn lựa chọn nào khác.

Vào năm 2018, ông Tập đã bãi bỏ các giới hạn nhiệm kỳ chủ tịch nước, đưa tới viễn cảnh rằng tôi sẽ phải sống vô thời hạn dưới chế độ Stalin mới. Mùa hè năm sau, tôi đã có thể đến Hoa Kỳ bằng thị thực du lịch. Khi ở đó, tôi nhận được tin nhắn từ một người bạn nói với tôi rằng chính quyền Trung Quốc, cáo buộc tôi hoạt động “chống Trung Quốc”, sẽ bắt tôi nếu tôi trở về. Tôi quyết định kéo dài chuyến thăm của mình cho đến khi mọi việc lắng xuống. Sau đó đại dịch COVID-19 bùng phát, các chuyến bay đến Trung Quốc bị hủy bỏ nên tôi phải đợi thêm một thời gian nữa. Đồng thời, tôi cảm thấy ghê tởm về việc ông Tập xử lý sai vụ cơn dịch bùng phát và tôi đã ký một bản kiến ​​nghị ủng hộ Li Wenliang [Lý Văn Lượng], bác sĩ nhãn khoa ở Vũ Hán, người đã bị cảnh sát làm khó dễ vì đã cảnh báo bạn bè về căn bệnh mới và cuối cùng đã chết vì bệnh đó. Tôi nhận được điện thoại khẩn cấp của chính quyền ở Trường Đảng Trung ương đòi tôi phải về nước.

Nhưng bầu không khí ở Trung Quốc ngày càng u ám. Nhậm Chí Cường, ông trùm bất động sản bất đồng chính kiến, đã biến mất vào tháng Ba, sớm bị khai trừ khỏi đảng và bị kết án 18 năm tù. Trong khi đó, vấn đề của tôi với các nhà chức trách càng tăng thêm do việc phổ biến trái phép một bài nói chuyện riêng tư mà tôi đã đưa lên mạng cho một nhóm nhỏ bạn bè trong đó tôi đã gọi ĐCSTQ là “thây ma chính trị” và nói rằng ông Tập nên từ chức. Khi tôi gửi cho bạn bè một bài báo ngắn mà tôi viết đả kích luật an ninh quốc gia mới của ông Tập ở Hồng Kông, có người cũng đã tiết lộ điều đó.

Tôi biết tôi đã gặp rắc rối. Chẳng bao lâu, tôi bị khai trừ khỏi Đảng. Nhà trường tước phúc lợi nghỉ hưu của tôi. Tài khoản ngân hàng của tôi đã bị đóng băng. Tôi đã yêu cầu các giới chức năng ở Trường Đảng Trung ương bảo đảm an toàn cá nhân cho tôi nếu tôi trở về. Các quan chức ở đó tránh trả lời và lại đưa ra những lời đe dọa mơ hồ đối với con gái tôi ở Trung Quốc cùng cậu con trai nhỏ của cô ấy. Chính ở thời điểm này, tôi đã chấp nhận sự thật: ra đi không trở lại.

Trần Lương Ngọc chuyển ngữ

© Học Viện Công Dân Jan 2022

Nguồn: https://www.foreignaffairs.com/articles/china/2020-12-04/chinese-communist-party-failed