ác giả: Larry Diamond
Tháng 11/12 năm 2024
Vào ngày 5 tháng 8, sau nhiều tuần biểu tình của sinh viên, một nhà độc tài đã sụp đổ ở quốc gia đông dân thứ tám thế giới. Giữa lúc chiến tranh ở Ukraine và Gaza, nguy cơ leo thang của một cuộc xung đột rộng lớn hơn ở Trung Đông, và những bước ngoặt của cuộc đua giành chức tổng thống Hoa Kỳ, việc từ chức đột ngột và chạy trốn sang nước ngoài của thủ tướng Bangladesh, bà Sheikh Hasina, đã ít được thế giới chú ý tới. Nhưng tầm quan trọng của việc bà bị lật đổ có thể coi là đáng kể. Hasina, con gái của nhà lãnh đạo giành độc lập và là tổng thống đầu tiên của Bangladesh, lần đầu tiên giữ chức thủ tướng từ năm 1996 đến năm 2001 và được bầu lại vào chức vụ này vào năm 2008. Trong ba nhiệm kỳ liên tiếp trong 15 năm sau đó, bà đã cai trị với sự tàn nhẫn và quyết tâm ngày càng tăng. Bà khẳng định quyền kiểm soát của cá nhân bà đối với tòa án, công tố viên, các cơ quan chính phủ và cảnh sát, sử dụng họ để bịt miệng giới truyền thông, đàn áp những người đối lập, đe dọa doanh nghiệp tư nhân và phá hoại các thể chế và truyền thống trước đây cho phép các cuộc bầu cử tự do và công bằng. Vào thời điểm người dân Bangladesh bỏ phiếu lần nữa vào năm 2014, Hasina đã chà đạp lên các chuẩn mực hiến pháp đến mức hầu hết các đảng đối lập đã chọn tẩy chay cuộc bầu cử, đẩy nhanh quá trình đất nước rơi vào chế độ độc tài và cai trị sai trái.
Tuy nhiên, xã hội dân sự Bangladesh đã từ chối im lặng trước làn sóng bắt giữ và mất tích ngày càng gia tăng. Vào tháng 1 năm 2024, khi Hasina chuẩn bị bước vào nhiệm kỳ thứ tư liên tiếp trong một cuộc bầu cử không công bằng khác (cũng bị phe đối lập tẩy chay), cuộc biểu tình của người dân đã gia tăng. Vào tháng 6, cơn phẫn nộ của dân chúng bùng nổ. Nguyên nhân có vẻ khiêm tốn: việc khôi phục hệ thống hạn ngạch việc làm của chính phủ được cho là có lợi cho hậu thuẫn chính trị của Hasina. Sinh viên đại học Bangladesh đã xuống đường, tức giận trước viễn cảnh về một chế độ vơ vét của dân. Hasina đã đáp trả bằng sự đàn áp: lực lượng xung kích của đảng bà đã tham gia cuộc chiến, và bà đã cử cảnh sát và quân đội vào cuộc. Trong hai tháng sau đó, hàng trăm thường dân đã thiệt mạng, hơn 20.000 người bị thương và hơn 10.000 người bị bắt. Sự tàn bạo của chính phủ đã biến một phong trào phản kháng hạn chế thành một chiến dịch bất tuân dân sự trên toàn quốc chống lại chế độ chuyên chế và tham nhũng. Cuối cùng, sau khi mất sự ủng hộ của quân đội, Hasina đã chạy trốn sang Ấn Độ.
Người ta có thể lập luận rằng việc lật đổ một nhà độc tài là một công việc dễ dàng hơn ở Bangladesh so với những nơi khác. Không có đảng phái hay phong trào nào của Bangladesh đã thể chế hóa sự kiểm soát về mặt tư tưởng và chính trị đối với nhà nước, bộ máy an ninh và nền kinh tế theo cách mà các đảng cộng sản cách mạng đã làm ở Trung Quốc, Cuba và Việt Nam, các giáo sĩ Hồi giáo đã làm ở Iran, hoặc ở mức độ thấp hơn là phong trào “xã hội chủ nghĩa Bolivar” của Hugo Chávez đã làm ở Venezuela. Nhưng nhiều chế độ độc tài đã nổi lên trong thập kỷ qua đã đi theo một con đường tương tự như Bangladesh. Các nhà lãnh đạo tham nhũng đã khoét rỗng các thể chế dân chủ và thiết lập chế độ độc tài đằng sau vỏ bọc của các cuộc bầu cử đa đảng. Theo một sách lược chung, họ đã phá hủy hoàn toàn nền dân chủ ở El Salvador, Hungary, Nicaragua, Serbia, Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ và Venezuela. Ở những nơi khác, các công cụ tương tự đã được sử dụng để làm suy yếu nền dân chủ, mặc dù việc các quốc gia đó có vượt qua ranh giới để trở thành chế độ độc tài hay không vẫn còn gây tranh cãi: các ví dụ gần đây bao gồm Georgia, Honduras, Ấn Độ, Indonesia, Philippines và Sri Lanka. Các hoạt động phi tự do cũng đã làm xói mòn chất lượng dân chủ và sự ủng hộ của công chúng đối với nền dân chủ ở Botswana và Mauritius, những hệ thống đa đảng lâu đời nhất của Châu Phi. Các đảng cầm quyền tham nhũng và độc đoán ở Mông Cổ và Nam Phi đã giám sát sự suy giảm dân chủ, mặc dù các cuộc bầu cử gần đây đã gây ra những thất bại nghiêm trọng cho cả hai. Ngược lại, ở Mexico, một động thái của Andrés Manuel López Obrador với tư cách là tổng thống sắp mãn nhiệm có thể làm xói mòn thêm nền pháp trị bấp bênh của đất nước. Một tu chính hiến pháp mới đòi tất cả các thẩm phán phải được bầu một cách phổ thông, làm suy yếu tính độc lập của ngành tư pháp và gây nguy hiểm cho tương lai của nền dân chủ của đất nước.
Hầu hết các quốc gia này không phải là chế độ độc tài toàn diện. Thay vào đó, họ đã tham gia (hoặc bị thu hút về phía) hàng ngũ mà các nhà khoa học chính trị Steven Levitsky và Lucan Way gọi là chế độ “chuyên quyền cạnh tranh”. Chế độ này bao gồm một mâu thuẫn cốt lõi. Giới tinh hoa cầm quyền sẽ không cam kết tuân thủ các chuẩn mực hiến pháp cho phép bầu cử tự do và trách nhiệm giải trình của chính phủ, nhưng người dân sẽ không chấp nhận việc xóa bỏ hoàn toàn các quyền tự do cá nhân, chủ nghĩa đa nguyên dân sự, bầu cử đa đảng và ít nhất là khả năng các đảng thay phiên nhau nắm quyền. Nhiều quốc gia, chẳng hạn như Kenya, Nigeria và Tanzania, đã nán lại trong tình trạng nửa vời này một thời gian. Những quốc gia khác, chẳng hạn như Pakistan và Thái Lan, làm như vậy với sự phức tạp thêm là quân đội nắm giữ quyền phủ quyết chính trị.
Triển vọng toàn cầu về dân chủ đang bị che mờ, nếu không muốn nói là hoàn toàn chán nản. Chủ nghĩa cực đoan chính trị, sự phân cực và sự ngờ vực đã gia tăng ngay cả trong các nền dân chủ tự do lâu đời, và sự nghi ngờ về cam kết dân chủ của một trong hai ứng cử viên của các đảng lớn là một vấn đề lớn trong cuộc đua tổng thống Hoa Kỳ năm nay. Nhưng vẫn có những tia nắng sau những đám mây. Bangladesh không phải là ví dụ duy nhất. Cuộc đấu tranh giành tự do ở Venezuela đã leo thang sau cuộc bầu cử bị đánh cắp vào tháng 7, với phe đối lập đưa ra bằng chứng áp đảo về chiến thắng vang dội của mình. Chế độ được quân đội Thái Lan hậu thuẫn đã phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tính hợp pháp ngày càng sâu sắc kể từ khi tòa án ngăn chặn người thắng phiếu trong cuộc bầu cử quốc hội vào tháng 5 năm 2023 lên nắm quyền. Chế độ độc tài bầu cử của Thổ Nhĩ Kỳ có vẻ ngày càng mệt mỏi và mong manh, với người mạnh cầm quyền lâu năm của đất nước, Recep Tayyip Erdogan, chỉ giành được chiến thắng trước một đối thủ tầm thường trong cuộc bỏ phiếu tổng thống vào tháng 5 năm 2023. Năm ngoái cũng vậy, những chiến thắng vang dội của phe đối lập trong các cuộc bầu cử quốc gia cũng đã mang lại sự phục hồi các hoạt động dân chủ ở Ba Lan và một cơ hội lịch sử ở Guatemala để vượt qua lịch sử đầy rắc rối về chế độ độc tài và tham nhũng của đất nước. Và hai chu kỳ bầu cử vừa qua ở Malaysia cho thấy sự chuyển dịch hướng tới nền dân chủ sau sáu thập kỷ của chế độ độc tài cạnh tranh ổn định: một liên minh tạm thời đã chấm dứt chế độ cai trị kéo dài sáu thập kỷ của liên minh Barisan Nasional vào năm 2018, và sau đó cử tri đã bầu nhà lãnh đạo phe đối lập chính, Anwar Ibrahim, làm thủ tướng vào năm 2022.
Nói cách khác, những nhà độc tài ngày nay không phải là bất khả chiến bại. Nhiều người dựa vào các cuộc bầu cử, mặc dù là những cuộc bầu cử có nhiều sai sót, để duy trì bầu không khí hợp pháp. Nhưng điều này có nghĩa là họ có thể bị đánh bại. Các mặt trận đối lập trong nước kiên quyết, được cộng đồng lớn hơn của các nền dân chủ tự do ủng hộ, có thể đảo ngược xu hướng thoái trào dân chủ toàn cầu. Để thành công, họ sẽ cần phải vật lộn với những động lực của xu hướng phản dân chủ, làm suy yếu các trụ cột chống đỡ nền dân chủ giả tạo của chủ nghĩa dân túy độc tài và áp dụng các bài học từ các chiến dịch thành công trước đây chống lại những người cai trị độc tài. Cũng giống như những nhà độc tài sử dụng một bộ công cụ chung để giành lấy và duy trì quyền lực, những đối thủ của họ phải bắt đầu tuân theo sách lược để thay đổi dân chủ.
DÂN CHỦ ĐANG BỊ THUA CUỘC
Đà tăng trưởng toàn cầu của dân chủ đạt đỉnh ngay sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Lần đầu tiên trong lịch sử, các hệ thống mà người dân có thể lựa chọn và thay thế các nhà lãnh đạo của họ trong các cuộc bầu cử tự do và công bằng đã trở thành hình thức chính phủ chiếm ưu thế. Đến năm 2006, khoảng ba phần năm số quốc gia đạt tiêu chuẩn này. Kể từ đó, dân chủ và tự do đã liên tục thoái lui. Trong 18 năm liên tiếp, nhóm phi lợi nhuận Freedom House—theo dõi những thay đổi về quyền chính trị, quyền tự do dân sự và pháp quyền và cho các quốc gia và vùng lãnh thổ một “điểm tự do” hàng năm trên thang điểm từ 0 đến 100—đã thống kê được nhiều quốc gia mất tự do hơn là giành được tự do. Thông thường, sự khác biệt là tỷ lệ hai trên một hoặc tệ hơn. Dự án V-Dem có trụ sở tại Thụy Điển đã xác định được một xu hướng bất lợi tương tự nhưng có phần gần đây hơn.
Sự suy giảm này diễn ra trên toàn cầu. Mức độ dân chủ trung bình, được đo lường bởi Freedom House, V-Dem và Economist Intelligence Unit, đã giảm ở mọi khu vực trên thế giới kể từ năm 2006. Những thay đổi không phải lúc nào cũng tệ hại, nhưng chúng có phạm vi rộng và dai dẳng đáng kể. Trong số 22 quốc gia cận Sahara có sự thay đổi đáng kể về thang đo dân chủ trong giai đoạn này, 18 quốc gia đã suy giảm và trong số bốn quốc gia được cải thiện, ba quốc gia—Angola, Gambia và Zimbabwe—chỉ đơn giản là trở thành chế độ độc tài ít lạm dụng hơn. Trên toàn cầu, ba quốc gia này là những trường hợp ngoại lệ; hầu hết các chế độ độc tài, bao gồm Campuchia, Trung Quốc, Ai Cập, Ethiopia, Iran, Myanmar và Nga, đã trở nên áp bức đáng kể hơn .
Sự phấn khích đi kèm với sự bành trướng mạnh mẽ của dân chủ từ giữa những năm 1970 đến vài năm đầu của thế kỷ 21 – “làn sóng dân chủ hóa thứ ba” – giờ đây dường như chỉ còn là ký ức xa vời. Một số nơi, chẳng hạn như Armenia, Bhutan, Colombia, Malaysia, Moldova và Đài Loan, đã chứng kiến những bước tiến đáng kể trong những năm gần đây, nhưng những đột phá thực sự về dân chủ thì lại rất ít và thỉnh thoảng mới xẩy ra. Chính phủ Iran đã đàn áp một cuộc nổi dậy của quần chúng, Phong trào Xanh, vào năm 2009 và một cuộc nổi dậy khác, phong trào Phụ nữ, Cuộc sống, Tự do, vào năm 2022. Tất cả các cuộc nổi dậy Mùa xuân Ả Rập cuối cùng đều bị đàn áp ngoại trừ một cuộc nổi dậy ở Tunisia, nơi nền dân chủ non trẻ đã vấp ngã cho đến khi tổng thống hành động để giải tán quốc hội và thủ tướng vào năm 2021. Cùng năm đó, quân đội Myanmar đã chấm dứt một cuộc thử nghiệm về nền bán dân chủ khi lật ngược kết quả cuộc bầu cử năm 2020 của đất nước, đóng cửa quốc hội và bắt giữ các quan chức dân sự cấp cao, đẩy Myanmar vào một cuộc xung đột đẫm máu.
NHỮNG NGƯỜI CHO PHÉP CHẾ ĐỘ ĐỘC QUYỀN
Điều gì khiến thế giới quay cuồng theo chế độ độc tài? Câu trả lời khác nhau tùy theo từng quốc gia, nhưng có một số yếu tố nổi bật. Ở một mức độ nào đó, việc điều chỉnh lộ trình có thể là điều không thể tránh khỏi khi nền dân chủ lan rộng đến nhiều quốc gia thiếu nền tảng kinh tế và thể chế pháp quyền để kiểm soát tham nhũng và mang lại tiến bộ bền vững. Tuy nhiên, điều này không giải thích được mọi trường hợp thoái trào; một số quốc gia rất nghèo, chẳng hạn như Liberia và Malawi, phần lớn vẫn giữ được những thành quả dân chủ của mình.
Một động lực khác là hàng loạt đòn giáng vào mặt danh tiếng mà nền dân chủ tự do phải gánh chịu trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21. Đầu tiên, cuộc xâm lược Iraq năm 2003 của Hoa Kỳ đã làm hoen ố ý tưởng thúc đẩy dân chủ bằng cách liên kết nó với việc sử dụng sức mạnh quân sự để buộc thay đổi chế độ—gây ra hậu quả thảm khốc. Sau đó, chỉ vài năm sau, một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm nhiều chính phủ mất ổn định, bao gồm cả các chính phủ dân chủ. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ Hoa Kỳ, một nền dân chủ được cho là mẫu mực, khi ngành công nghiệp thế chấp của quốc gia này sụp đổ sau một thập kỷ chính phủ không thể kiểm soát được các hoạt động cướp đoạt.
Không chỉ các nền dân chủ làm hoen ố hình ảnh của chính mình; các tác nhân phi tự do đã giúp dân chủ mang tiếng xấu. Trung Quốc đã sử dụng sự giàu có ngày càng tăng, tuyên truyền, công nghệ và các cơ chế ảnh hưởng ngầm để thúc đẩy mô hình quản trị độc đoán của mình và làm giảm sức hấp dẫn của các xã hội cởi mở. Chính phủ Nga đã hành động theo những cách tương tự để hạ thấp nền dân chủ và làm mất ổn định các thể chế dân chủ, chẳng hạn như can thiệp vào các cuộc bầu cử. Sau khi nhậm chức vào năm 2010, Thủ tướng Hungary Viktor Orban đã tạo ra một nền dân chủ giả vô cùng phi tự do, thu hút các lực lượng cực hữu chống nhập cư và chủ nghĩa dân tộc trên khắp thế giới.
Những kẻ độc tài ngày nay không phải là bất khả chiến bại.
Lúc đầu, phương tiện truyền thông xã hội cho phép công dân lách luật kiểm soát thông tin của các quốc gia độc tài và tổ chức cho sự thay đổi dân chủ. Mặc dù các nền tảng trực tuyến vẫn được sử dụng cho các mục đích này, nhưng vai trò tích cực của chúng đã bị lu mờ bởi sự phát triển của các phương tiện giám sát và đàn áp kỹ thuật số độc đoán và bởi các tác động phân cực của các thuật toán truyền thông xã hội, mà các chế độ độc tài có thể khai thác để chia rẽ và làm suy yếu các xã hội dân chủ. Trí tuệ nhân tạo hiện đang bắt đầu thúc đẩy những nỗ lực này.
Sự bùng nổ của công nghệ kỹ thuật số đã tham gia vào một loạt các xu hướng toàn cầu đang lan rộng làm suy yếu sự ủng hộ của người dân đối với nền dân chủ và tạo ra nền tảng màu mỡ cho sự trỗi dậy của các đảng dân túy phi tự do. Sự gia tăng đáng kể về bất bình đẳng thu nhập ở cả các nền kinh tế tiên tiến và mới nổi có nghĩa là sự giàu có tăng vọt đối với một bộ phận nhỏ những người có thu nhập cao nhất và căng thẳng kinh tế đối với phần lớn tầng lớp trung lưu và hạ lưu, những người trở nên bi quan về tương lai và hoài nghi về các đảng phái và chính trị gia đã làm họ thất vọng. Bất bình đẳng sau đó đã dẫn đến sự phân cực chính trị, điều này càng trở nên trầm trọng hơn do sự di chuyển nhanh chóng của những người, ý tưởng và nền văn hóa đa dạng qua biên giới và bởi các chiến dịch vì bình đẳng giới và chủng tộc đã làm đảo lộn các hệ thống phân cấp địa vị xã hội đã tồn tại từ lâu. Để khai thác phản ứng dữ dội của công chúng, các chính trị gia ở nhiều nền dân chủ tiên tiến, đặc biệt là ở Châu Âu và Hoa Kỳ, đã coi các làn sóng nhập cư lớn là mối đe dọa đối với sức khỏe kinh tế, sự ổn định xã hội và bản sắc quốc gia. Lập luận của họ đã bóp méo thực tế một cách nghiêm trọng, nhưng lại đánh vào nỗi lo sợ của mọi người.
Những xu hướng này trùng hợp với sự thay đổi lịch sử về quyền lực toàn cầu. Từ năm 1960 đến năm 1990, tỷ trọng của Hoa Kỳ trong sản lượng kinh tế toàn cầu đã giảm từ hai phần năm xuống còn khoảng một phần tư, và vẫn giữ nguyên như vậy, và tỷ trọng của châu Âu đã giảm gần một nửa kể từ năm 1960. Vào thời kỳ đỉnh cao vào đầu những năm 1990, Nhật Bản chiếm gần một phần năm GDP toàn cầu; hiện tại, tỷ trọng của nước này chỉ còn ba phần trăm. Trong khi đó, Trung Quốc đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, chỉ xếp sau Hoa Kỳ, và nền kinh tế của Ấn Độ hiện đang tiến gần đến Đức và Nhật Bản. Trung Quốc và Nga đã sử dụng tham nhũng, cưỡng ép và tuyên truyền để tác động và phá hoại các xã hội cởi mở, và quân đội của họ đã tạo ra những cái bóng đen dài và đáng báo động trong các khu vực lân cận của họ. Tóm lại, trong khi Bắc Kinh và Mátxcơva (và Tehran) uy hiếp để định hình lại chính trị thế giới, thì các nền dân chủ tiên tiến, với vị thế kinh tế và địa chính trị suy yếu, lại có thế yếu và đang hành động một cách thận trọng. “Khoảnh khắc đơn cực” ngay sau Chiến tranh Lạnh, khi những nhà độc tài đưa ra quyết định chính trị dưới bóng quyền lực của Mỹ, đã qua lâu rồi.
Sau đó là yếu tố con người. Kiềm chế trong việc thực thi quyền lực không phải là xu hướng tự nhiên. Đây là lý do tại sao những người xây dựng nên nền dân chủ lập hiến đầu tiên, Hoa Kỳ, hiểu được nhu cầu kiểm tra và cân bằng quyền lực, theo nguyên tắc Madison rằng “phải tạo ra tham vọng để chống lại tham vọng”. Có câu cách ngôn nói rằng “Nếu bạn muốn thử thách tính của một người, “hãy trao cho anh ta quyền lực”. Không bị cản trở bởi những rào cản hiến pháp mạnh mẽ, hầu hết đàn ông—và một số phụ nữ, như bà Sheikh Hasina và Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi trước bà, —có cơ hội đều không qua được bài kiểm tra.
Trong hai thập kỷ qua, những hạn chế quan trọng đối với hành vi của con người đã được dỡ bỏ. Các chính trị gia tham vọng đã quan sát lời lẽ và phương pháp mà những người đồng cấp của họ ở nước ngoài đã sử dụng để phá hoại nền dân chủ, từng phần một. Những nhà độc tài đầy tham vọng này đã học được từ những ví dụ thành công và hành động theo những bài học đó, được khích lệ bởi sự bất lực của các tác nhân trong nước và quốc tế trong việc kiềm chế họ. Trước đây, sự lan truyền của các ý tưởng chính trị đã giúp thúc đẩy quá trình chuyển đổi dân chủ. Ngày nay, nó tạo điều kiện cho sự thoái trào dân chủ.
Hơn nữa, hiến pháp chỉ hạn chế những người cai trị nếu hiến pháp được thực thi. Khi những văn bản này được gắn chặt vào các chuẩn mực, động cơ và kỳ vọng, thì vi phạm rất hiếm và có xu hướng thất bại vì những tác nhân quyền lực trỗi dậy để khẳng định lại trật tự hiến pháp dựa trên niềm tin và lợi ích cá nhân trong việc duy trì các quy tắc của trò chơi. Nhưng khi sự phân cực chính trị nghiêm trọng tạo ra cảm giác lo sợ đến sự sống còn – nỗi sợ rằng thua cuộc bầu cử có thể có nghĩa là mất vĩnh viễn quyền lực chính trị và thậm chí là sinh kế và tự do của một người – những động lực này thay đổi. Một chính trị gia có đủ kỹ năng và ý chí để vượt qua các chuẩn mực hiến pháp có thể dấn thân vào con đường chuyên chế.
VẠCH TRẦN GIAN LẬN
Những nhà độc tài ngày nay chủ yếu lên nắm quyền thông qua hòm phiếu và họ vẫn nắm quyền trong khi vẫn duy trì vỏ bọc của các cuộc bầu cử cạnh tranh. Trong số khoảng 30 quốc gia đã mất nền dân chủ kể từ năm 2006, tất cả trừ ba quốc gia (các quốc gia đảo chính Sahel – Burkina Faso, Mali và Niger) đều tuân theo mô hình này. Việc nắm giữ phiếu bầu giúp những nhà độc tài có được quyền hợp pháp, nhưng nó cũng khiến họ dễ bị tổn thương. Cuộc bầu cử mà họ tổ chức có thể rất bất công, nhưng nhà độc tài đương nhiệm vẫn có thể thua và bị buộc phải rời khỏi chức vụ. Tuy nhiên, để khôi phục nền dân chủ thông qua các cuộc bầu cử, những người bảo vệ nền dân chủ trong nước và những người ủng hộ họ ở nước ngoài phải có khả năng xác định chủ nghĩa dân túy độc đoán và hiểu cách thức hoạt động của nó.
Đầu tiên, những người theo chủ nghĩa dân túy độc đoán cho rằng họ bảo vệ “người dân” – đa số thực sự, có đạo đức – chống lại một cơ quan tham nhũng đã chiếm đoạt quyền lực và bóc lột họ. Trong diễn trình này, không chỉ có chính sách tốt và xấu; mà còn có người tốt và người xấu. Giới tinh hoa cầm quyền và đồng minh của họ đã phá sản về mặt đạo đức và phải bị đánh bại, ngay cả khi một số đồng minh của họ, đặc biệt là trong cộng đồng doanh nghiệp, đã lợi dụng cơ hội đi theo những người theo chủ nghĩa dân túy. Việc tạo ra sự chia rẽ quá rõ ràng như vậy cho phép ứng cử viên theo chủ nghĩa dân túy tuyên bố có nhiệm vụ đàn áp những người đối lập và thanh trừng công chức khi lên nắm quyền. Việc sử dụng chiến thuật đó giải thích một đặc điểm quan trọng khác: những người theo chủ nghĩa dân túy chống lại thể chế. Họ chê các thể chế kinh tế và chính trị hiện tại, thậm chí cả hiến pháp, là những cấu trúc thối nát của một nhóm tinh hoa thối nát. Sau đó, họ phá bỏ các biện pháp bảo vệ thể chế và biến quyền lực nhà nước thành vũ khí.
Chủ nghĩa dân túy độc đoán không phải là sự bảo vệ của người dân mà là sự lừa dối người dân.
Ở cấp độ xã hội, những người theo chủ nghĩa dân túy bác bỏ chủ nghĩa đa nguyên. Họ thấy không cần phải tạo không gian cho nhiều cách suy nghĩ và niềm tin khác nhau. Đất nước có một bản sắc, và những người khác biệt – về đức tin hoặc hệ tư tưởng hoặc nguồn gốc quốc gia hoặc bản dạng tình dục – là những kẻ lệch lạc và nguy hiểm. Họ phải bị theo dõi, kiểm soát hoặc loại bỏ. Cuối cùng, chủ nghĩa dân túy mang tính cá nhân và bá quyền. Vì các nhà lãnh đạo là những người cứu tinh của đất nước họ chống lại các thế lực xấu xa, nên họ phải được trao quyền lực phi thường và không bị ràng buộc. Các cuộc bầu cử không còn là công cụ chịu trách nhiệm và ràng buộc về mặt chính trị nữa mà là trưng cầu dân ý để xác nhận lại các nhà lãnh đạo và các thế lực độc quyền chính trị của họ.
Không thể tránh khỏi, một chế độ dân túy độc đoán sẽ trở nên không khoan dung, bài ngoại và tham nhũng. Hơn cả sự cố chấp của nó—có lẽ còn hơn cả sự vi phạm các chuẩn mực dân chủ—sự tham nhũng này, xuất phát từ cảm giác về quyền lợi đạo đức được hưởng từ các nguồn lực công, chính là gót chân Achilles [điểm yếu]của nó.
Chìa khóa để đánh bại chủ nghĩa dân túy độc đoán là vạch trần sự phù phiếm, gian dối và tham nhũng của nó, để cho thấy nó không phải là sự bảo vệ của người dân mà là sự lừa đảo người dân. Điều này đòi hỏi phải có báo cáo độc lập để vạch trần tham nhũng. Nó đòi hỏi phải sử dụng, bất cứ khi nào có thể, các thể chế đối trọng—các cơ quan quản lý, cơ quan kiểm toán, ngành tư pháp, cảnh sát, công chức và, nếu có sự hiện diện đáng kể của phe đối lập, cơ quan lập pháp—để phanh phui và hạn chế các hành vi lạm dụng lòng tin của công chúng. Các thành phần của xã hội dân sự, chẳng hạn như các hiệp hội luật sư, công đoàn, hội sinh viên và các tổ chức chuyên môn và công dân khác, có thể là đồng minh quan trọng trong mục tiêu này. Sự phản kháng sẽ hiệu quả hơn khi được huy động sớm; những người theo chủ nghĩa dân túy độc đoán nắm giữ quyền lực càng lâu thì họ càng phá vỡ nhiều ràng buộc về mặt thể chế. Một lý do khiến các đảng phi tự do không hoàn toàn lật đổ nền dân chủ ở Ba Lan hoặc, lúc đầu, ở Mexico, không giống như ở Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ hoặc Venezuela, là họ không giành được đủ đa số phiếu trong quốc hội hoặc thông qua một cuộc bỏ phiếu trực tiếp để sửa đổi hiến pháp. Vẫn còn đủ sự độc lập về tư pháp và các thể chế khác để hạn chế sự trượt dốc của chế độ độc tài. Sự ràng buộc đó đã được dỡ bỏ ở Mexico với cuộc bầu cử vào tháng 6, khi đảng của López Obrador giành được đủ số ghế trong Quốc hội để thúc đẩy việc thay đổi hiến pháp.
ĐẢO NGƯỢC THỜI THẾ
Một khi chế độ độc tài chinh phục được các thể chế của đất nước, thì không còn khả năng kháng cự từ bên trong nhà nước nữa. Cần phải huy động quần chúng để đánh bại nó. Thành công sẽ có nhiều khả năng hơn nếu phong trào dân chủ diễn ra trong hòa bình và hoạt động trong ranh giới thể chế hợp lệ. Các cuộc biểu tình, đình công và các hình thức phản kháng dân sự phi bạo lực khác có thể làm chậm hoặc ngăn chặn sự suy thoái thành chủ nghĩa chuyên chế—hoặc thậm chí buộc một nhà độc tài phải chạy trốn, như đã thấy ở Bangladesh năm nay và ở Ukraine sau các cuộc biểu tình Euromaidan năm 2014. Nhưng con đường hứa hẹn nhất vẫn là thông qua thùng phiếu. Trong thập kỷ qua, nhiều lần, ở các quốc gia đa dạng như Bolivia, Brazil, Ecuador, Guatemala, Ba Lan, Senegal, Sri Lanka, Zambia và—đúng vậy—Hoa Kỳ, các cuộc bầu cử dân chủ và việc thực thi giới hạn nhiệm kỳ đã hạn chế sự lan tràn của chế độ độc tài. Vào tháng 5 tại Ấn Độ, các biện pháp đó đã làm xói mòn sự kiểm soát chặt chẽ của Đảng cầm quyền Bharatiya Janata đối với quốc hội, điều này có thể làm giảm sự sẵn sàng của đảng này trong việc lạm dụng quyền lực để kìm hãm sự bất đồng chính kiến. Ở Belarus, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ và Zimbabwe, các chiến dịch đối lập đã không thành công, không thể vượt qua những trở ngại do các chế độ độc tài cố hữu gây ra đối với các cuộc bầu cử tự do và công bằng. Nhưng những tiến bộ mà họ đạt được là đáng chú ý. Trong trường hợp của Belarus, ứng cử viên tổng thống đối lập có khả năng đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 2020, nhưng nhà độc tài Alexander Lukashenko đã tuyên bố kết quả hoàn toàn sai sự thật.
Việc huy động phe đối lập cũng đã có hiệu quả trong các thời kỳ trước đó. Trên toàn cầu, làn sóng dân chủ hóa thứ ba được thúc đẩy một phần bởi các phong trào đối lập đã vượt qua sự đàn áp và gian lận bằng cách ghi lại chiến thắng bầu cử của họ thông qua việc kiểm phiếu độc lập tại các điểm bỏ phiếu và bằng cách tập hợp các cuộc biểu tình quần chúng. “Cách mạng màu” thành công đầu tiên mang lại quá trình chuyển đổi dân chủ sau một cuộc bầu cử gây tranh cãi đã diễn ra ở Philippines vào năm 1986, tiếp theo là Serbia vào năm 2000, Georgia vào năm 2003, Ukraine vào năm 2004–5 và Kyrgyzstan vào năm 2005. Trong một số trường hợp khác, những nhà độc tài cầm quyền đã choáng váng trước thất bại trong cuộc bầu cử của họ nhưng đã chấp nhận kết quả và nhượng lại quyền lực mà không cần phải biểu tình quần chúng.
Cả những chiến thắng bầu cử trước đó và gần đây hơn cho nền dân chủ đều có những đặc điểm quan trọng khác. Các lực lượng đối lập đoàn kết đằng sau một lập trường bầu cử duy nhất hoặc, như ở Ba Lan năm ngoái, đã phối hợp các chiến dịch tranh cử của họ tại quốc hội để tránh chia rẽ phiếu bầu. Trong mỗi trường hợp, đảng cầm quyền độc tài đều rất không được lòng dân, chia rẽ nội bộ hoặc cả hai. Trong một số trường hợp, áp lực bên ngoài từ các nền dân chủ tự do đã làm tăng chi phí đàn áp và khuyến khích sự rời bỏ hàng ngũ của giới tinh hoa. Và khả năng bám giữ quyền lực của những người đương nhiệm bằng cách sử dụng sự dối trá trắng trợn và vũ lực thô bạo đã bị hạn chế bởi các phương tiện truyền thông độc lập, sự chia rẽ trong lực lượng an ninh hoặc sự không muốn nổ súng vào chính người dân của họ.
Các chiến dịch thành công chống lại những người theo chủ nghĩa dân túy độc tài đã chia sẻ một số chiến lược truyền tải thông điệp cơ bản. Họ tạo ra những lời kêu gọi chính trị rộng rãi để huy động cơ sở bầu cử lớn nhất có thể, thậm chí còn ve vãn những cử tri đã từng ủng hộ chế độ độc tài trong quá khứ. Họ tìm cách thống nhất đất nước chứ không phải chia rẽ đất nước. Những người theo chủ nghĩa dân túy độc tài phát triển mạnh và xuất sắc trong việc phân cực; những đối thủ dân chủ của họ phải làm suy yếu chiến lược tạo hoài nghi đó. Họ phải thể hiện sự đồng cảm và khiêm nhường, chào đón những bộ phận xã hội đa dạng về văn hóa, dân tộc và ý thức hệ tham gia vào sự nghiệp dân chủ. Ví dụ, tại Thổ Nhĩ Kỳ, các chiến dịch bầu cử thành phố cực kỳ thành công của phe đối lập vào năm 2019 và 2024 đã theo đuổi chiến lược “tình yêu cấp tiến” – một sự bác bỏ rõ ràng đối với luận điệu thù hận và chia rẽ của Đảng Công lý và Phát triển cầm quyền. Hơn nữa, những người khao khát dân chủ phải nêu ra những thất bại của người đương nhiệm và phải đưa những vấn đề quan trọng đối với cử tri bình thường lên hàng đầu, chẳng hạn như cải thiện hiệu suất kinh tế của đất nước, chấm dứt tham nhũng và cung cấp các dịch vụ cải thiện cuộc sống của người dân lên hàng đầu. Các chiến dịch của họ phải khơi dậy lòng yêu nước, nhấn mạnh niềm tự hào về quốc gia như một nền dân chủ. Chiến dịch tranh cử không nên nêu lên một viễn tượng đen tối mà thay vào đó phải đưa ra viễn ảnh tự tin về một tương lai tốt đẹp hơn. Các viễn ảnh đó cũng không nên nhàm chán. Một chiến dịch thành công là chiến dịch tràn đầy sự sáng tạo, năng động, say mê và thậm chí là niềm vui. Cuối cùng, như nhà khoa học chính trị Steven Fish đã thúc giục, những người tìm cách lật đổ một nhà độc tài không thể yếu đuối. Họ phải thể hiện sự tin tưởng, với lời kêu gọi mạnh mẽ đến lợi ích và giá trị của cử tri. Họ phải chứng minh rằng chế độ cai trị của người mạnh không phải là hình thức lãnh đạo mạnh mẽ duy nhất.
Sự hỗ trợ từ bên ngoài cũng rất quan trọng. Tuy nhiên, gần đây, các nền dân chủ tự do đã đứng ngoài cuộc khi Trung Quốc và Nga đứng sau những nhà độc tài gian lận và khủng bố để giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, chẳng hạn như Lukashenko ở Belarus năm 2020, Emmerson Mnangagwa ở Zimbabwe năm ngoái và Nicolás Maduro ở Venezuela vào tháng 7, hoặc, trong trường hợp của Pakistan, khi quân đội cấm cựu Thủ tướng Imran Khan ra tranh cử vào quốc hội trong cuộc bầu cử tháng 2. Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược gia tăng với một trục chế độ độc tài mới nổi bao gồm Trung Quốc, Nga và Iran, các nền dân chủ hùng mạnh, đặc biệt là Hoa Kỳ và các nước châu Âu lớn, đang do dự không muốn sử dụng mọi công cụ ngoại giao, thông tin và kinh tế mà họ có để hỗ trợ cho sự thay đổi dân chủ.
Để đảo ngược sự trượt dốc của nền dân chủ toàn cầu, các nền dân chủ tự do phải quay trở lại cuộc chơi. Một cuộc thử nghiệm về quyết tâm của họ đã diễn ra ở Venezuela, nơi phe đối lập đã tổng hợp số phiếu chính thức từ hơn 80 phần trăm các điểm bỏ phiếu để chứng minh rằng ứng cử viên của họ, Edmundo González, đã đánh bại Maduro trong một chiến thắng vang dội trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 7. Với sự hậu thuẫn của Trung Quốc, Nga và Cuba, cũng như lòng trung thành của giới quân sự và an ninh trong nước, Maduro đã đàn áp dã man các cuộc biểu tình đòi ông thừa nhận kết quả và chuyển giao quyền lực một cách hòa bình. Việc chấm dứt cơn ác mộng độc tài của Venezuela, vốn đã khiến hơn một phần năm dân số, khoảng tám triệu người, phải chạy trốn khỏi đất nước trong thập kỷ qua, giờ đây đòi hỏi một nỗ lực ngoại giao mạnh mẽ. Brazil, Hoa Kỳ và các nền dân chủ ở Mỹ Latinh và Châu Âu cần phối hợp các nỗ lực của họ để thuyết phục Maduro và các đồng minh của ông chấp nhận lời đề nghị miễn trừ truy tố của phe đối lập để đổi lấy việc chuyển giao quyền lực. Các cuộc đàm phán đòi hỏi cả củ cà rốt và cây gậy. Một liên minh quốc tế không chỉ phải chuẩn bị đưa ra những nhượng bộ đau đớn về lệnh ân xá (bao gồm bảo vệ các thành viên của chế độ Venezuela khỏi bị truy tố tại Hoa Kỳ và đảm bảo cho họ được đi lại an toàn ở nước ngoài) mà còn phải đe dọa giới tinh hoa bằng các lệnh trừng phạt đối với tài sản ở nước ngoài của họ và chặn cung cấp thị thực cho gia đình họ nếu họ tiếp tục chống lại ý chí của người dân Venezuela.
Thật hiếm khi thấy một ví dụ rõ ràng và được ghi chép đầy đủ như vậy về một nhà độc tài phải đối mặt với thất bại trong bầu cử và khát vọng thay đổi rộng lớn, đầy nhiệt huyết của xã hội. Venezuela đã chín muồi cho một cuộc chuyển đổi dân chủ và các nền dân chủ tự do trên thế giới phải làm mọi cách có thể để hỗ trợ quá trình này.
TỰ DO TÁI SINH
Những thách thức mà nền dân chủ phải đối mặt ngày nay là rất lớn. Các chế độ độc tài đã tấn công để làm mất uy tín và gây bất ổn cho các xã hội tự do. Việc họ làm như vậy vì sợ hãi và lo lắng về tính hợp pháp của chính mình không làm cho hành động của họ bớt nguy hiểm hơn. Tệ hơn nữa, các chế độ độc tài thù địch đang ngày càng hành động cùng nhau theo một trục ác ý có Trung Quốc, Nga và Iran ở trung tâm, cùng với Cuba, Bắc Triều Tiên và các nước khác. Bảo vệ nền dân chủ trước các thế lực như vậy sẽ đòi hỏi sức mạnh, sự nhanh nhẹn và sự kiên trì. Các nền dân chủ tự do trên thế giới phải tăng cường khả năng phòng thủ bên ngoài và hợp tác chặt chẽ hơn để duy trì lợi thế kinh tế, quân sự và công nghệ, không cho các đối thủ phản dân chủ nắm quyền lực thống trị chính trị toàn cầu và làm suy yếu đối thủ của họ.
Đồng thời, như được nhấn mạnh bởi những thắng lợi bầu cử gần đây của các lực lượng dân túy cực đoan ở cả cánh hữu và cánh tả tại Pháp và Đức, các nhà lãnh đạo dân chủ không thể bỏ qua các biện pháp phòng thủ nội bộ của họ. Các nền dân chủ mới nổi và trưởng thành đều cần các chiến lược để chống lại tiếng gọi quyến rũ của chủ nghĩa dân túy phi tự do. Ngay cả một nền dân chủ tự do lâu đời cũng có thể chuyển sang chế độ độc tài nếu chính phủ của họ không đưa ra các chính sách hiệu quả để chống lại tội phạm và khủng bố, quản lý biên giới quốc gia, xoa dịu các chia rẽ xã hội và đảm bảo tiếp cận rộng rãi với cơ hội kinh tế và an ninh.
Trong phạm vi tiếp cận toàn cầu của mình, các nền dân chủ tự do phải đẩy lùi các chiến dịch độc đoán về thông tin sai lệch và ảnh hưởng ngầm. Họ phải đầu tư lớn hơn và phối hợp tốt hơn vào viện trợ phát triển để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và pháp quyền, biến các quốc gia thành đối tác của nền dân chủ thay vì là tù nhân của chế độ độc tài hoặc các quốc gia trong đó sự cai trị của nhà nước đã thất bại. Và để giành chiến thắng trong cuộc chiến ý tưởng, họ cần truyền bá các giá trị dân chủ, bài học thành công và thất bại, và các nguồn thông tin thực sự.
Khi nền dân chủ lấy lại đà phát triển, ngay cả các chế độ độc tài cố hữu cũng sẽ chịu áp lực.
Không quốc gia nào có thể bị cho là không có khả năng chuyển sang dân chủ. Các chế độ độc tài sống trong nỗi sợ hãi rằng những gì đã xảy ra với các chế độ cộng sản độc đảng dường như bất khả xâm phạm vào cuối thế kỷ XX sẽ xảy ra với họ. Bất cứ lúc nào, cái chết của một nhà lãnh đạo hoặc một cuộc khủng hoảng đột ngột cũng có thể mở ra cơ hội để lật đổ một chế độ độc tài cố hữu. Nhưng những người chủ trương dân chủ có thể làm nhiều hơn là chỉ chờ đợi. Các cuộc bầu cử cạnh tranh, ngay cả khi không tự do và công bằng, là các sự kiện huy động đưa đến cơ hội thay đổi. Khi những khoảnh khắc đó đến, chúng phải được không chỉ cử tri mà cả các quốc gia dân chủ khác nắm bắt.
Trước cuộc bầu cử, các nền dân chủ có thể cung cấp cho các nhóm đối lập nguồn tài trợ và đào tạo mà họ cần để tiến hành kiểm phiếu song song. Họ có thể giúp các đảng phái chính trị thực hiện các chiến dịch có ý nghĩa và hiệu quả hơn. Họ có thể cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho các cơ quan quản lý bầu cử. Họ có thể giúp các tổ chức xã hội dân sự xác định và phản đối thông tin sai lệch và sự can thiệp của nước ngoài trên phương tiện truyền thông xã hội. Họ có thể cử các nhà quan sát độc lập trong suốt chiến dịch, cuộc bỏ phiếu và quá trình kiểm phiếu để củng cố các nỗ lực giám sát trong nước. Nếu phe đối lập giành chiến thắng và người đương nhiệm không muốn từ chức, các nền dân chủ có thể cần phải nhượng bộ nhà độc tài đã thất bại để đổi lấy việc chấp nhận kết quả—và có khả năng gây áp lực gay gắt lên chế độ nếu họ từ chối.
Khi các cơ hội đầy hứa hẹn cho quá trình dân chủ hóa xuất hiện, như đã chứng kiến vào mùa hè này ở Bangladesh và Venezuela, chúng sẽ thu hút sự chú ý của quốc tế. Nhưng các cơ quan và mạng lưới hỗ trợ quá trình chuyển đổi dân chủ cũng nên chú ý đến các cuộc bầu cử trong những năm tới. Ở nhiều quốc gia đã rời xa nền dân chủ hoặc vẫn chưa đảm bảo được nền dân chủ, cử tri sẽ tiếp tục phải đối mặt với những lựa chọn quan trọng tại hòm phiếu. Bầu cử sẽ tạo cơ hội thúc đẩy tiến trình dân chủ ở các quốc gia như Armenia và Malaysia; đảo ngược sự thoái trào dân chủ ở Botswana, Georgia, Ấn Độ, Indonesia, Mauritius, Mông Cổ, Philippines và Serbia; đạt được nền dân chủ có ý nghĩa ở Gambia, Kenya, Nigeria, Pakistan và Thái Lan; lật đổ chế độ độc tài ở các quốc gia mà khả năng này thường bị bác bỏ, chẳng hạn như Zimbabwe; và một ngày nào đó đưa các quốc gia bị chia cắt bởi xung đột, chẳng hạn như Ethiopia và Sudan, vào con đường hướng tới hòa bình và trách nhiệm giải trình chính trị.
Các học giả và nhà hoạch định chính sách hiểu được điều mà nhà khoa học chính trị Terry Karl từng gọi là “sự ngộ nhận của chủ nghĩa bầu cử”. Một cuộc bầu cử dân chủ chỉ là bước khởi đầu. Nếu không có sự quản lý trung thực và hiệu quả, một nhà nước có năng lực, pháp quyền, một hệ thống tư pháp độc lập và một xã hội dân sự cảnh giác, nền dân chủ sẽ không mang lại tăng trưởng kinh tế, cơ sở hạ tầng vật chất, dịch vụ xã hội, y tế công cộng, nhân quyền và an toàn và an ninh mà cử tri mong đợi. Việc giúp các chính phủ được bầu lên một cách dân chủ tiếp cận được nguồn tài chính, đầu tư, đào tạo và hỗ trợ trực tiếp mà họ cần để phục vụ người dân của mình một cách hiệu quả vẫn là nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan viện trợ chính thức, chẳng hạn như Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ và các tổ chức tư nhân.
Sau hai thập kỷ suy thoái dân chủ, giờ đây tình hình phải thay đổi. Các cuộc bầu cử cạnh tranh không phải là hồi kết của câu chuyện, nhưng chúng mang lại những cơ hội đầy hứa hẹn và dồi dào nhất để tiến lên theo hướng tích cực về mặt chính trị. Một chiến lược phối hợp về sự tham gia quốc tế để hỗ trợ các cuộc bầu cử tự do có thể làm chậm bước tiến của chủ nghĩa dân túy phi tự do, củng cố các xã hội dân sự, giúp khôi phục sức sống dân chủ ở các quốc gia then chốt và mang lại vụ thu hoạch lớn nhất về các cuộc chuyển đổi dân chủ kể từ khi suy thoái dân chủ toàn cầu bắt đầu. Khi nền dân chủ lấy lại đà phát triển, ngay cả các chế độ độc tài cố hữu cũng sẽ chịu áp lực. Giải pháp thay thế khác là tiếp tục trôi dạt theo chủ nghĩa độc tài hướng tới một thế giới ngày càng phân cực, đàn áp, xung đột và bạo lực. Một thế giới do Trung Quốc, Nga, Iran và các chế độ độc tài nhỏ hơn thống trị, không phải bận tâm về nhân quyền và pháp quyền. Một thế giới thù địch với lợi ích và giá trị không chỉ của Hoa Kỳ mà còn của những người yêu chuộng tự do ở khắp mọi nơi.
Bầu cử là cơ hội để bảo vệ và đổi mới nền dân chủ. Không được phép lãng phí.
Trần Lương Ngọc chuyển ngữ
© Học Viện Công Dân, December 2024
Tác giả: LARRY DIAMOND là William L. Clayton Senior Fellow tại Viện Hoover và Mosbacher Senior Fellow về Dân chủ Toàn cầu tại Viện Freeman Spogli về Nghiên cứu Quốc tế tại Đại học Stanford.
Nguồn: https://www.foreignaffairs.com/world/how-end-democratic-recession-autocracy-larry-diamond?utm_medium=newsletters&utm_source=fatoday&utm_campaign=How%20to%20End%20the%20Democratic%20Recession&utm_content=20241028&utm_term=EDZZZ003ZX