Lawrence W. Reed
Trong ba giờ, “cuộc đối đầu nổi tiếng ở cửa trường học” đã thu hút sự chú ý của cả nước. Thống đốc Alabama George Wallace đã chặn lối vào Hội trường Foster tại Đại học Alabama ở Tuscaloosa.[1] Ý định của ông là ngăn cản hai sinh viên ghi danh vào học tại đây. Tại sao?
Điều đó không liên quan gì đến tính cách[2] của họ mà liên quan đến màu da của họ.
Cuộc đối đầu kết thúc khi Wallace nhượng bộ. Nhiều năm sau, ông bày tỏ sự hối hận về hành động của mình và được nhiều người da đen ở Alabama ủng hộ. Sự ăn năn, tha thứ, công bằng và cơ hội đã chiến thắng.
Nền tảng đạo đức của uật Tương hoán (Có qua có lại)
Vào ngày 11 tháng 6 năm 1962 căng thẳng đó, Tổng thống Kennedy đã xem cảnh này trên một chiếc tivi đen trắng tại Nhà Trắng. Cảm thấy nhẹ nhõm vì bạo lực đã được tránh khỏi, ông đã đưa ra quyết định đột ngột là sẽ nói chuyện với toàn quốc về quyền công dân ngay tối hôm đó. Sau đây là một phần những gì ông đã nói:
Trọng tâm của câu hỏi là liệu tất cả người Mỹ có được hưởng quyền bình đẳng và cơ hội bình đẳng hay không, liệu chúng ta có đối xử với những người Mỹ đồng hương của mình như cách chúng ta muốn được đối xử hay không. Nếu một người Mỹ, vì da đen, không thể ăn trưa tại một nhà hàng mở cửa cho công chúng, nếu anh ta không thể gửi con mình đến trường công tốt nhất hiện có, nếu anh ta không thể bỏ phiếu cho các viên chức nhà nước sẽ đại diện cho mình; nếu, nói tóm lại, anh ta không thể tận hưởng cuộc sống trọn vẹn và tự do mà tất cả chúng ta đều mong muốn, thì ai trong số chúng ta sẽ bằng lòng để màu da của mình thay đổi và đứng vào vị trí của người đó?
Tổng thống đã viện dẫn điều mà các tiết gia gọi là “đạo đức “có đi có lại,” một nguyên tắc đạo đức—thực ra là một lý tưởng—phổ quát đến mức bạn có thể thấy nó thể hiện trong hầu như mọi nền văn hóa, tôn giáo và truyền thống đạo đức. Trong Kitô giáo, nó được gọi là “Quy luật vàng.” Đó là một khái niệm mà hầu như mọi người ở khắp mọi nơi sẽ nói với bạn rằng họ ngưỡng mộ ngay cả khi họ không sống theo nó.
Quy luật vàng như một lý tưởng
Tôi đã không đề cập đến điều này trong video gần đây của tôi tại Đại học Prager, “Liệu Chúa Jesus có phải là một người theo chủ nghĩa xã hội không?” nhưng chính Chúa Jesus đã nói về Quy luật vàng, được ghi lại trong Luca 6:31 và Matthew 7:12 (“Vậy trong mọi sự, hãy làm cho người khác những gì bạn muốn họ làm cho bạn, vì điều này tóm tắt sách Luật pháp và sách các Tiên tri”). Ngài đã diễn đạt điều này theo một cách khác trong Mác 12-28-34 khi được hỏi điều răn nào là lớn nhất trong tất cả các điều răn và chỉ đứng sau việc yêu Chúa. Điều đó là là “yêu người lân cận như chính mình,” ngài nói.
Con người không phải là thần thánh, vì vậy chúng ta còn lâu mới trở thànhhoàn hảo. Chúng ta vi phạm các điều răn, cũng như lời nói của chính mình. Bằng hành vi của mình, đôi khi chúng ta khiến những người phàm khác rất khó yêu thương chúng ta. Trong số chúng ta có rất nhiều người nói dối, lừa đảo, ăn cắp và thậm chí tấn công người vô tội. Không có đức tin hay truyền thống quan trọng nào gợi ý rằng chúng ta phải bỏ qua những điều xấu xa này hoặc từ chối quyền tự vệ chống lại chúng. Vì vậy, một lần nữa, hãy nghĩ về Quy luật Vàng như một lý tưởng—một giới luật rất cao cả mà chúng ta nên đặt tâm trí vào và đó là một giới luật chỉ bị thỏa hiệp hoặc bãi bỏ khi người khác bắt đầu vi phạm.
Thật ngạc nhiên phải không, khi một số người nghĩ rằng vì Chúa Jesus thích giúp đỡ những người kém may mắn nên Người sẽ ủng hộ việc ép buộc phải làm điều đó?
Chẳng phải bạn muốn sống trong một thế giới hoàn hảo, nơi mọi người thực hành Quy luật Vàng mọi lúc thay vì chỉ thực hành chỉ một lúc nào mà thôi hay sao? Một thế giới như vậy sẽ trông như thế nào? Tôi tin rằng đó sẽ là một thế giới hòa bình và đầy năng suất. Bạn có thể tiếp tục công việc kinh doanh của mình mà không sợ rằng mạng sống hoặc tài sản của bạn sẽ bị lấy mất vì không ai có thể lấy chúng lại muốn một tai họa như vậy xảy ra với họ. Không bắt nạt, ăn hiếp người khác vì bất kỳ lý do hoặc mục đích nào.
Điều đó khiến cho Quy luật Vàng bị bóp méo một cách tiêu cực (“đừng làm thế này thế kia”), nhưng cũng có một mặt tích cực của nó. Nếu một người khác bị bệnh hoặc “suy sụp” theo một cách nào đó, và bạn ở vị trí có thể giúp đỡ với tư cách là cha mẹ, người thân, bạn bè hoặc nhà từ thiện, bạn có thể sẽ hỗ trợ – một phần vì bạn muốn người khác giúp bạn nếu bạn ở trong tình huống tương tự và một phần vì dù sao thì bạn cũng có thể thông cảm theo bản năng.
Tự nguyện Giúp đỡ lẫn nhau
Đây là lý do tại sao người Samaritan đã giúp đỡ người đàn ông đang gặp khó khăn được mọi người coi là “Tốt.” Chúa Jesus thường xuyên thúc giục mọi người giúp đỡ lẫn nhau, nhưng Ngài không bao giờ, không bao giờ—xin nhắc lại: không bao giờ, không bao giờ—gợi ý rằng điều này được thực hiện thông qua sự ép buộc của bên thứ ba. Nó phải là cá nhân và tự nguyện, luôn luôn. Nếu không, làm sao chúng ta có thể biết được điều gì thực sự sự hiện diện trong trái tim bạn: chính trị gia, vũ lực, thuế, quan liêu, nợ nần hoặc sự kích động mua phiếu củanhững kẻ mị dân.
Một người bạn của tôi trên Facebook, Ted Kucklick, đã nói thế này trong một bình luận trên một trong những bài đăng của tôi: “Chúa Jesus đã bảo BẠN phải đi thêm một dặm nữa. Ngài KHÔNG BAO GIỜ bảo bạn thuê người La Mã để buộc hàng xóm của bạn làm điều đó cho bạn.”
Một người bạn khác trên Facebook, Jim Kress ở Michigan, đã đưa vấn đề đi xa hơn một bước:
Những mệnh lệnh của Chúa Jesus đối với chúng ta là trách nhiệm cá nhân, không phải trách nhiệm tập thể. Sử dụng vũ lực của chính phủ để ăn cắp của một số người trong chúng ta rồi phân phối tài sản bị đánh cắp đó cho những người khác thì không thỏa mãn những mệnh lệnh đó. Trên thực tế, điều đó xúc phạm đến Chúa Jesus vì cái gọi là ‘lòng bác ái’ phát sinh từ hành vi trộm cắp là một tội lỗi, một sự vi phạm rõ ràng Quy luật Vàng và Điều răn thứ Mười.
Tôi thách bất kỳ ai tìm được đoạn Kinh thánh nào mà Chúa Jesus kêu gọi bất kỳ chính quyền nào—La Mã, Do Thái hay các nước khác—đánh thuế một số người và giúp đỡ những người khác như một phương pháp hỗ trợ người nghèo.
Thật đáng kinh ngạc, phải không, khi một số người nghĩ rằng vì Chúa Jesus ủng hộ việc giúp đỡ những người kém may mắn, nên Người sẽ ủng hộ việc ép buộc phải làm điều đó? Thật là một bước nhảy vọt trong lý luận! Người cũng ủng hộ việc ăn, uống, ngủ, tắm rửa, ăn chay và cầu nguyện—nhưng Người không bao giờ ngụ ý rằng những điều đó đòi hỏi các chương trình và thuế của chính phủ để chi trả cho nó.
Nếu Chúa Jesus đồng cảm với những gì chúng ta biết ngày nay là khía cạnh phân phối bắt buộc của chủ nghĩa xã hội, chắc chắn Người đã từng nói ở đâu đó rằng, “Ngươi phải dùng sức mạnh của Nhà nước để lấy của Peter và trao cho Paul,” hoặc “Yêu cầu các quan tòa và người cai trị của ngươi miễn cho ngươi trách nhiệm giúp đỡ những đồng bào đang gặp khó khăn,” hoặc “Loại bỏ người trung gian và tự mình lấy miễn là ngươi định làm điều tốt với nó.” Người không bao giờ nói như vậy.
Nền tảng Kinh tế của Quy luật Vàng
Adam Smith đượcngưỡng mộ vì cuốn sách có ảnh hưởng sâu rộng, xuất bản năm 1776 The Wealth of Nations, cũng xứng đáng được ngưỡng mộ không kém vì tác phẩm trước đó của ông, The Theory of Moral Sentiments. Trong cuốn sách năm 1759 đó, ông đã đưa ra một phiên bản của Quy luật vàng làm nền tảng cho sự tiến hóa của các tiêu chuẩn đạo đức được chấp nhận rộng rãi. Khi chúng ta, những người trưởng thành, bước vào và từ từ loại bỏ sự tập trung độc quyền của thời thơ ấu vào “bản thân,” chúng ta bắt đầu đánh giá hành vi cá nhân của mình theo cách mà một “khán giả vô tư” bên thứ ba sẽ làm, như được học giả James Otteson của Smith giải thích trong “Adam Smith: Nhà triết học đạo đức”:
Tất cả chúng ta đều đã trải qua cảm giác khó chịu khi bị phán xét một cách bất công, tức là dựa trên thông tin thiên vị hoặc không đầy đủ (những người không biết tình trạng của chúng ta nghĩ xấu về chúng ta). Điều này khiến chúng ta mong muốn người khác kiềm chế phán xét cho đến khi họ biết toàn bộ câu chuyện; nhưng vì tất cả chúng ta đều muốn như vậy, nên mong muốn của chúng ta về sự đồng cảm lẫn nhau về tình cảm đã khuyến khích chúng ta áp dụng một góc nhìn bên ngoài, như thể, trong việc phán xét hành vi của chính mình.
Nghĩa là, vì chúng ta muốn người khác có thể “đi vào” cảm xúc của mình, chúng ta cố gắng điều chỉnh chúng để trở thành những gì chúng ta nghĩ người khác sẽ đồng cảm; nhưng chúng ta chỉ có thể biết điều đó là gì nếu chúng ta tự hỏi người quan sát vô tư sẽ nghĩ gì. Giọng nói của người quan sát vô tư trở thành người hướng dẫn hành vi bản chất thứ hai của chúng ta. Thật vậy, Smith cho rằng đó là những gì chúng ta gọi là “lương tâm” của mình.
Nhà triết học và kinh tế học tư bản vĩ đại Smith đã chứng minh, như Otteson đã nói, rằng “việc một người (phần lớn là vô thức) áp dụng các Quy luật chung, phát triển lương tâm và áp dụng quy trình quan sát khách quan được thúc đẩy bởi một mong muốn cơ bản, bẩm sinh—mong muốn được đồng cảm lẫn nhau.” Đó chính là Quy luật vàng trong hành động.
Các tiêu chuẩn ứng xử có thể được thực thi bằng luật do con người tạo ra, nhưng bản thân luật không phải là nguồn gốc của chúng. Điều tối đa mà luật có thể làm là công nhận và duy trì những gì mà cả nam vả nữ giới đã chấp nhận chung thông qua một quá trình tự phát, hữu cơ. Như nhà kinh tế học và chính khách người Pháp Frederic Bastiat đã viết trong The Law:
Sự sống, tự do và tài sản không hiện hữu vì con người đã tạo ra luật pháp. Ngược lại, chính sự kiện sự sống, tự do và tài sản hiện hữu trước đó đã khiến con người tạo ra luật pháp ngay từ đầu.
Cốt lõi của vũ trụ đạo đức là mong muốn bẩm sinh của chúng ta về “sự đồng cảm lẫn nhau.” Những người theo đạo Thiên chúa, và nhiều người theo các tôn giáo khác, cũng tin rằng sự đồng cảm như vậy được Chúa gieo vào [lòng chúng ta] như một yếu tố trong bản chất của chúng ta, nhưng niềm tin vào Chúa thực sự không cần thiết để chấp nhận khái niệm đó. Bạn có thể theo một tôn giáo khác, hoặc không theo tôn giáo nào, và nhận ra rằng con người tiến bộ đến mức họ hòa hợp và cùng nhau làm việc vì lợi ích chung.
Quy luật Vàng và Mười Điều Răn
Bất cứ khi nào bạn nghĩ rằng điều đó có thể đã xảy ra lần đầu tiên, và cho dù bạn tin rằng đó là do Chúa truyền cảm hứng hay là sự ngẫu nhiên theo tiến hóa, thì đó là một ngày tuyệt vời trong lịch sử loài người khi mọi người quyết định đối xử với người khác theo cách mà họ muốn được đối xử.
Bốn điều răn đầu tiên trong Mười Điều Răn liên quan đến mối quan hệ của cá nhân với Chúa. Sáu điều răn còn lại liên quan đến mối quan hệ của cá nhân với những cá nhân khác, và cả sáu điều răn đó, trên thực tế, đều là phần mở rộng của Quy luật Vàng.
Chúng ta phải tôn kính cha mẹ mình. Chúng ta hy vọng rằng con cái chúng ta cũng sẽ tôn kính cha mẹ của chúng.
Chúng ta phải kiềm chế việc giết người. Chúng ta muốn người khác cũng tôn trọng sự sống như vậy.
Bản chất của thị trường tự do là sự trao đổi tự nguyện, đôi bên cùng có lợi.
Chúng ta được khuyên rằng ngoại tình là sai trái. Chúng ta cảm thấy bị xúc phạm nặng nề khi người khác phạm tội này với người phối ngẫu của chúng ta.
Các điều răn từ Tám đến Mười cảnh báo về việc trộm cắp, nói dối và thèm muốn. Chúng ta không thích khi người khác ăn cắp của chúng ta, nói dối chúng ta hoặc nhìn những gì thuộc về chúng ta với con mắt thèm muốn.
Liệu Quy luật vàng có liên quan đến vấn đề kinh doanh không? Chắc chắn là có!
Barry Brownstein là giáo sư danh dự về kinh tế và lãnh đạo tại Đại học Baltimore và là tác giả của The Inner-Work of Leadership. Khi tôi hỏi ông câu hỏi đó, ông trả lời:
Các tập đoàn thành công, chẳng hạn như Southwest Airlines, Cisco và L.L. Bean, đã học được rằng việc biến Quy luật vàng thành nền tảng cho văn hóa doanh nghiệp của họ chính là chìa khóa thành công. Bạn không thể kiếm được lợi nhuận nếu không đối xử đúng mực với khách hàng bằng cách đáp ứng những nhu cầu cấp thiết nhất của họ. Và bạn không thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng nếu không có khả năng thấu cảm nhìn thế giới qua con mắt của họ. Hãy biến Quy luật vàng thành lối sống của bạn và bán những sản phẩm tuyệt vời, Leon Leonwood Bean, người sáng lập L.L. Bean đã dạy như vậy, và khách hàng của bạn “sẽ luôn quay lại để mua thêm.”
Bản chất của thị trường tự do là sự trao đổi tự nguyện, cùng có lợi. Mặc dù một số nhỏ trong tất cả các giao dịch có thể liên quan đến những phán đoán sai lầm, sự lừa dối trắng trợn hoặc sự hối hận của người mua vì nhiều lý do, hầu hết các giao dịch đều là chiến thắng cho tất cả mọi người. Mỗi nhà giao dịch đều tin rằng những gì họ đang giao dịch có giá trị hơn đối với họ so với những gì họ từ bỏ. Điều này chỉ đúng khi các giao dịch được thực hiện một cách tự do. Nếu một bên bị buộc phải giao dịch, thì gần như chắc chắn họ tin rằng họ sẽ tệ hơn sau sự việc.
Sự ép buộc không tương thích với Quy luật Vàng như gian lận. Trên thị trường, chúng ta cung cấp cho nhau thứ gì đó có giá trị. Nếu một bên khác nói, “Không, cảm ơn,” chúng ta không rút súng ra và yêu cầu anh ta giao dịch. Nếu chúng ta làm vậy, chúng ta chắc chắn sẽ không làm với anh ta những gì chúng ta muốn anh ta làm với chúng ta.
Chủ nghĩa Xã hội là Cây gậy, không phải củ Cà-rốt
Đây là lý do tại sao chủ nghĩa xã hội vô hiệu hóa Quy luật Vàng. Những người theo chủ nghĩa xã hội tuyên bố “đoàn kết với nhân dân.” Họ nói rằng họ chỉ muốn giúp đỡ người khác. Vấn đề là họ tìm cách thực hiện điều đó như thế nào. Nếu kế hoạch của họ nằm trong phạm vi lời khuyên thân thiện, gợi ý hữu ích và yêu cầu tham gia tự nguyện, họ sẽ không phải là những người theo chủ nghĩa xã hội. Những người theo chủ nghĩa tư bản luôn mời gọi và đưa ra lời khuyên, gợi ý và sự tham gia – bằng củ cà rốt, không phải cây gậy. Có rất nhiều sự thật trong hình ảnh khôi hài phổ biến trên internet nói rằng, “Chủ nghĩa xã hội – Những ý tưởng tốt đến mức phải bắt buộc.” Nếu những người theo chủ nghĩa xã hội thực sự giúp đỡ một số người (và bản thân điều đó còn có thể tranh luận), thì họ chỉ làm như vậy bằng cách làm tổn thương những người khác.
Quy luật vàng vẫn là vàng ròng như thuở nào. Chỉ là một số người thực sự nghĩ rằng họ có điều gì đó tốt hơn trong đầu dành cho những đồng bào của mình.
Quy luật vàng đòi hỏi chúng ta phải tôn trọng sự khác biệt của nhau, tìm ra tiếng nói chung và đối xử với nhau một cách tự nguyện. Nó nhấn mạnh đến lợi ích chung được đo lường một cách cá nhân và chủ quan bởi mỗi bên trong sự tương tác. Bằng cách dựa vào vũ lực, chủ nghĩa xã hội nói với chúng ta rằng, “Bạn sẽ bị bắt buộc vào việc này dù bạn có thích hay không vì chúng tôi nghĩ rằng điều đó tốt cho bạn, hoặc ít nhất là tốt cho ai đó.”
Nếu bạn là một người theo chủ nghĩa xã hội, bạn cần tự hỏi tại sao bạn muốn giải quyết quá nhiều vấn đề và rắc rối dưới họng súng. Tại sao cảnh sát (lực lượng chính phủ) phải tham gia vào mọi thứ? Niềm tin và sự tôn trọng của bạn dành cho những người đồng bào của mình ở đâu? Bạn quá chắc chắn rằng việc buộc người khác phải khuất phục trước ý chí của bạn là một điều tốt; bạn có phiền không nếu chúng tôi đảo ngược tình thế và làm điều tương tự với bạn? Nếu không, thì tôi muốn biết tại sao bạn lại được làm những điều này còn chúng tôi thì không. Điều gì khiến bạn trở nên đặc biệt như vậy? Như Bastiat đã nói thẳng thắn:
Nếu khuynh hướng tự nhiên của nhân loại quá tệ đến mức không an toàn khi cho phép mọi người được tự do, thì tại sao khuynh hướng của những người tổ chức này luôn tốt? Các nhà lập pháp và những người đại diện được chỉ định của họ không phải cũng thuộc về loài người sao? Hay họ tin rằng bản thân họ được tạo nên từ một loại đất sét mịn hơn phần còn lại của nhân loại?
Quy luật vàng vẫn là vàng ròng như thuở nào. Chỉ là một số người thực sự nghĩ rằng h ọ có điều gì đó tốt hơn trong đầu dành cho những đồng bào của mình.
Nông Duy Trường cuyển ngữ
© Học Viện Côn Dân, June 2025
Tác giả: Lawrence W. Reed là Chủ tịch danh dự của FEE (Foundation for Economics Eucation). Ông cũng là Thành viên Cao cấp và Đại sứ của Global Liberty. Ỗng đã xuất bản cac1c cuốn sách: Real Heroes: Incredible True Stories of Courage, Character, and Conviction and Excuse Me, Professor: Challenging the Myths of Progressivism
Nguồn: https://fee.org/articles/the-golden-rule-is-as-golden-as-ever/
[1] Sửa lỗi: Phiên bản gốc của bài viết này nêu rằng Thống đốc Wallace đã chặn lối vào Foster Auditorium tại Đại học Alabama ở Birmingham. Trường đại học này nằm ở Tuscaloosa, không phải Birmingham.
[2] Tác giả nhắ tới câu nói nổi tiếng của Mục sư Martin Luther King trong bài diễn văn lừng lẫy “Tôi có một giấc mơ: Các con của tôi sẽ hông bị đánh giá vì màu da của chúng, mà bằng tính cách của chúng.”