fbpx

Search Results for: Luận cương 11

Liệu Chúng ta có trở thành La-mã?

Lawrence W. Reed  LGT.  Lawrence W. Reed, Chủ tịch của Tổ chức Giáo dục Kinh tế (Foundation for Economic Education – FEE) trình bày sự suy thoái của nền Cộng hòa La-mã và đưa ra những lời cảnh báo cho nước Mỹ trong thế kỷ 21. “Ta có thể rút ra những bài học thật là hữu ích và phong phú từ quá khứ. Những bài học này được đặt trong ánh sáng của sự thật của lịch sử, là những thí dụ của mọi trường hợp có thể xảy ra. Từ đó, ta có thể lựa cho chính ta hay quốc gia của ta điều gì để  mô phỏng, và cũng để tránh những điều mà mang mầm họa từ trứng nước và kết quả thảm khốc nó mang lại.” — Sử gia La-mã Livy      Những khoản tiền khổng lồ do chính quyền chi ra để cứu trợ tài chánh. Sự gia tăng đến chóng mặt của nợ công. Sự tập trung quyền lực vào chính quyền trung ương. Một sự tranh chấp điên loạn của những nhóm lợi ích với vô vàn đòi hỏi công khố phải chi trả. Những quy định nở tung như nấm sau mưa nhằm hạn chế hoạt động của doanh nghiệp. Những lời kêu gọi đấu tranh giai cấp của những kẻ mị dân. Thuế khóa cao đánh trên sản phẩm. Đạo đức từng được coi là yếu tố quan trọng xây dựng đức tính vững mạnh ngày một suy đồi. Những điều này đang xảy ra trong thế kỷ thứ hai mươi mốt tại Mỹ cũng như đã xảy ra cho La-mã, nhà nước phúc lợi và xấu số, hai ngàn năm trước. Cả La-mã và Mỹ được sinh ra từ cuộc cách mạng chống lại chế độ quân chủ—Mỹ chống lại Anh quốc và La-mã chống lại dân Etruscan.[1] [Sau cuộc cách mạng] và cảnh giác với sự tập trung quyền lực, cả hai đều lập nên chế độ cộng hòa có cơ chế kiểm soát và cân bằng, phân ngăn quyền lực và bảo vệ một số quyền nhất định, nếu không của tất cả mọi người, thì cũng của một số người. Mặc dù có những khuyết điểm, sự thiết lập chế độ Cộng hòa La-mã vào thế kỷ thứ Sáu trước Công nguyên và sự thành lập chế độ Cộng hòa Mỹ vào thế kỷ 18 sau Công nguyên là đại biểu cho sự tiến bộ vĩ đại nhất về quyền tự do cá nhân trong cả lịch sử của nhân loại. Lịch sử của Cổ La-mã trải dài một ngàn năm—khoảng 500 năm là chế độ cộng hòa và 500 năm là chế độ đế quốc quý tộc; sự ra đời của Chúa Jesus xảy ra trong những năm chuyển tiếp giữa hai giai đoạn. Như sử gia Thomas Madden đã mô tả trong cuốn sách Những Đế quốc của Sự Tín nhiệm (Empires of Trust), xuất bản năm 2008 về sự tương đồng giữa hai nền văn minh La-mã và Mỹ khi La-mã theo chế độ cộng hoà trong nửa thiên niên kỷ đầu tiên. […]

Read more

Mười Phủ quyết hay nhất của các tổng thống trong lịch sử Hoa Kỳ

LGT. Thể chế dân chủ pháp trị được xây dựng trên hai khái niệm căn bản: quyền lực được tách biệt và được kiểm soát và cân bằng. Hiến pháp Hoa Kỳ đã thiết lập quyền phủ quyết để cho hành pháp và lập pháp có thể kiểm soát lẫn nhau. Bài viết dưới đây trình bày 10 phủ quyết hay nhất của các tổng thống Mỹ. Phủ quyết là một trong số những đóng góp nổi tiếng nhất mà chế độ Cộng hoà cổ La mã trước đây 25 thế kỷ đã để lại cho thế giới.Đây là 10 trong số các phủ quyết hay nhất Lawrence W. Reed Tổng thống James Garfield đặt tên con chó cưng của ông là Veto. Đó là một con chó đen khổng lồ giống Newfoundland nhưng đáng yêu, nặng khoảng 50 kg, Quốc hội hiểu ý: một dự luật bất hợp hiến sẽ được đưa vào ngay chuồng chó của Tổng thống. (Đáng tiếc là không có dự luật nào bị như vậy, vì tổng thống Garfield chỉ tại chức có 5 tháng) Quyền phủ quyết (veto) là một công cụ đáng kính đã có từ lâu tại nhiều quốc gia có chính thể cộng hòa. Cùng với giới hạn nhiệm kỳ, phân quyền, habeas corpus[1], và các quy định khác, phủ quyết đã là một đóng góp lịch sử mà nền Cộng hòa La Mã để lại cho thế giới từ 25 thế kỷ trước. Từ veto có nguồn gốc từ tiếng La tinh, có nghĩa là “Tôi cấm!” Người La Mã thời trước kiên quyết kìm hãm tham vọng của những người mê quyền lực đến nỗi họ cho phép diễn đàn của viện dân cử có quyền bác bỏ dự luật của Thượng viện, và họ cho hai viên chức cao cấp nhất trong chính quyền (consuls) có quyền bác bỏ quyết định lẫn nhau. Phủ quyết giúp kìm hãm các nhà lập pháp quá khích và gìn giữ nền Công hòa trong gần 500 năm. . Cảm hứng từ những người La Mã, ngay từ lúc đầu các nhà lập quốc Hoa Kỳ đã đưa quyền phủ quyết của Tổng thống vào trong quyền quy định bởi Hiến pháp – trong Điều 1, Đoạn 7. Tổng thống có thể ngăn chặn một biện pháp không cho trở thành luật bằng cách gửi lại cho Quốc hội dự luật không ký nội trong 10 ngày sau khi Quốc hội đã thông qua (“regular veto” – phủ quyết bình thường) hoặc chỉ không ký dự luật sau khi Quốc hội hoãn họp (“pocket veto”). Phủ quyết bình thường có thể bị vô hiệu hóa, nhưng chỉ khi nào cả hai viện có được đa số 2/3 số phiếu. Từ thời tổng thống George Washington, chỉ có 7% trong số 2572 lần phủ quyết là thật sự bị vô hiệu hóa. Trong tạp chí National Interest, số ngày 8 tháng 6 năm 2014, tác giả Robert W. Perry nhận xét , Phủ quyết của tổng thống là một trong những khoản hàng đầu trong Hiến pháp để ngăn ngừa các hoạt […]

Read more

Vài Suy Nghĩ về Giáo Dục : Chương 4

Phương Pháp Tổng Quát Đoạn 63 Nhưng nếu ta áp dụng đúng các phương pháp giáo dục tốt thì ta không cần đến những loại phần thưởng hay trừng phạt thông thường mà ta thường nghĩ đến hay áp dụng theo thói quen. Thật vậy, các hành động dại dột nhưng ngây thơ, các trò chơi của con trẻ, tất cả phải cho phép đứa trẻ chơi tự do, không hạn chế, chừng nào mà đứa trẻ vẫn tôn trọng những người hiện diện; các lỗi lầm này là những lỗi lầm của lứa tuổi chứ không phải là của chính bản thân đứa trẻ. Và nếu, đúng như ta phải làm,  để cho thời gian, cho sự bắt chước, cho năm tháng chín mùi sửa chữa các lỗi lầm ấy thì đứa trẻ sẽ tránh được các trừng phạt áp dụng không đúng lúc và không có hiệu qủa. Các trừng phạt này hoặc là không đàn áp được các khuynh hướng tự nhiên của đứa trẻ; và nếu cứ lập đi lập lại một cách vô ích thì khi thật sự cần dùng đến chúng sẽ không còn hiệu qủa nữa; hoặc là nếu chúng đủ mạnh để làm giảm niềm vui tự nhiên của tuổi trẻ, chúng chỉ làm hư thể xác và trí óc của đứa trẻ. Nếu khi trẻ con chơi, chúng gây tiếng ồn ào và gây xáo trộn, làm cho người có mặt khó chịu (sự việc này chỉ xảy ra khi cha mẹ có mặt ở đó) thì nếu cha mẹ biết dùng uy quyền của mình, một tiếng nói, một cái nhìn của cha hoặc mẹ cũng đủ làm cho chúng đi chơi chỗ khác hay làm chúng yên lặng một thời gian. Nếu ta muốn kích thích trí óc, gia tăng thể lực và sức khỏe của đứa trẻ thì tốt hơn hết là nên khuyến khích hơn là la mắng, đánh đập, đàn áp cái tâm trạng vui nhộn này mà thiên nhiên dành cho lứa tuổi và tâm tính đứa trẻ vào lúc đó. Nghệ thuật cao nhất là biến tất cả những gì đứa trẻ làm thành những trò chơi thích thú. Đoạn 64 Ở đây, hãy cho tôi nhấn mạnh đến một lỗi lầm trong phương pháp mà người ta thường dùng trong giáo dục: đó là việc nhồi nhét trí óc đứa trẻ trong mọi trường hợp với những luật lệ và lời giáo huấn mà nó không thể hiểu và sẽ quên ngay. Nếu đó là một việc mà ta muốn đứa trẻ làm, và cứ mỗi lần nó quên đi hay làm không tốt, thì ta hãy bắt nó lập đi lập lại cho đến khi có kết quả tốt. Làm như vậy có hai lợi ích: thứ nhất là nhận xét xem đó có phải là một việc mà trẻ con có khả năng thực hiện được hay không, hay là việc ta muốn trẻ làm có hợp với lứa tuổi của nó hay chưa; bởi vì có nhiều khi ta đòi hỏi nơi đứa trẻ những việc mà sau đó nó […]

Read more

Hãy Coi chừng có Dân chủ mà Không có Tự do

Richard Ebeling Một sai lầm cơ bản của thời đại chúng ta đó là, chúng ta  cho rằng dân chủ là câu thần chú đưa ta đến hòa bình, tự do và thịnh vượng. Những cuộc bầu cử gần đây ở Ukraine, Iraq, và Saudi Arabia, và sự hứa hẹn trong cuộc tranh cử tổng thống sôi nổi ở Ai Cập, được ca ngợi là dấu hiệu của ánh bình minh mới đang đến với nhân loại. Và thật ra, có thể như thế thật. Nhưng dân chủ tự nó không xác định hay bảo đảm cho một xã hội được tự do. Lịch sử đã cho ta  thấy nhiều câu chuyện về  những xã hội dân chủ đã hủ hóa thành những xã hội tham nhũng, cướp bóc và chuyên chế độc tài. Tháng Tư này đánh dấu 60 năm kể từ khi Adolf Hitler qua đời trong tàn tích  của Berlin khi Đệ Nhị Thế Chiến đến hồi  chấm  dứt ở Châu Âu. Điều thật đáng nhắc lại là cả đảng Cộng sản lẫn đảng Quốc xã đã hấp dẫn  số đông dân chúng ở Đức vào đầu thập niên 1930 trong buổi hoàng hôn của Cộng hòa Weimar. Trong cuộc bầu cử quốc gia Đức ngày 31 tháng 7 năm 1932, Nhũng người theo đảng Quốc Xã của Hitler nổi lên như một đảng lớn nhất đại diện trong quốc hội (mặc dù nhóm này không chiếm đa số phiếu bầu), trong khi Đảng Cộng sản là đảng mạnh thứ ba sau đảng Dân chủ Xã hội. Trong cuộc bầu cử tự do cuối cùng, ngày 6 tháng 11 năm 1932, trước khi Hitler lên nắm quyền vào tháng Giêng năm sau, Đảng Quốc xã đã mất ghế, nhưng vẫn là đảng lớn nhất trong nghị viện, cùng với những đảng viên Cộng sản vẫn ở vị trí thứ ba nhưng tiến sát Đảng Dân chủ Xã hội. Cả đảng Quốc Xã lẫn đảng Cộng Sản đều chẳng ngại ngùng khi cho cử tri Đức biết điều gì sẽ chờ họ nếu đảng Quốc Xã hay Cộng sản nắm quyền. Thật vậy, nhà kinh tế người Áo Ludwig von Mises đã quan sát vào năm 1926, ông cho biết rằng nhiều người Đức “đang đặt hy vọng vào sự xuất hiện của ‘kẻ mạnh’ –  bạo chúa sẽ suy nghĩ thay cho họ và chăm sóc họ.”  Nhiều người, thậm chí qua việc đi bầu cử, đã bán mất tự do khi họ bị quyến rũ bởi lời hứa của chính sách độc đoán mang màu sắc chính trị gia trưởng. Trong thế giới ngày nay, đặc biệt là ở Tây Âu và Bắc Mỹ, các hình thức  độc tài cực đoan như vậy không mấy hấp dẫn đối với phần lớn dân chúng. Rất ít người sẵn sàng đi bầu chịu đổi sự mất tự do chomột xã hội không tưởng độc đảng. Không, ngày nay dân chúng chỉ mong muốn sử dụng nhà nước để cướp bóc lẫn nhau thông qua sự can thiệp của chính phủ và tái phân phối phúc lợi. Những gì […]

Read more

PHẢN KHÁNG DÂN SỰ TRONG BỐI CẢNH QUYỀN LỰC BẤT TƯƠNG XỨNG

(Trích dịch) Véronique Dudouet “The practice of violence, like all action, changes the world, but the most probable change is to a more violent world” Hannah Arendt (1969, 80). 1. Giới thiệu1 Lịch sử của thế kỷ 20 đầy dẫy những thí dụ về những cuộc phản kháng bạo động, những thí dụ này cho thấy rằng phản kháng bằng bạo lực chống lại những hệ thống quyền lực bất công, độc tài hay sự thống trị của ngoại bang có khuynh hướng làm gia tăng cường độ bạo lực (thí dụ như những cuộc cách mạng tại Nga và Trung Hoa hay những cuộc chiến giải thực tại Phi châu và Á châu). Nhưng thế kỷ 20 cũng được mô tả bởi những cuộc đấu tranh bất bạo động có tác động mạnh mẽ. Một số những cuộc đấu tranh này được nhiều người biết đến (đấu tranh của Gandhi cho tự do của Ấn-độ, Martin Luther King, Jt với phong trào đấu tranh cho dân quyền tại Mỹ), trong khi có nhiều cuộc đấu tranh bất bạo động khác hầu như bị công luận và những cơ quan nghiên cứu bỏ quên. Mặc dú sức mạnh của sự phản kháng bất bạo động có vẻ như yếu đuối và không hữu hiệu khi phải đương đầu với quyền lực cực kỳ bất tương xứng, nó đã chứng tỏ được là một khí cụ chiến lược trong tay những cộng đồng bị gạt ra ngoài lề dòng chính dùng để khôi phục lại sự mất cân bằng về cơ cấu xã hội và đòi lại quyền được đối xử công bằng và tự quyết. Một câu hỏi, mà đã chưa được phân tích rộng rãi, và chương này tìm cách giải thích, là trong bối cảnh nào và điều kiện nào sự phản kháng bất bạo động có thể đóng góp vào sự xây dựng những tiến trình chuyển hóa xung đột bền vững và thành công. Chương này lập luận rằng sự phản kháng bất bạo động nên được xem là một bộ phận không thể thiếu được trong sự chuyển hóa xung đột, cũng như một phương thức khả thi nhằm đạt được hòa bình và công lý song song với những phương thức giải quyết xung đột chú trọng vào đối thoại, giải quyết vấn nạn, và phục hồi lại quan hệ hợp tác. Điều này có tính chất thích đáng đặc biệt trong thời kỳ chuyển tiếp đầu tiên của những cuộc xung đột vẫn tiềm ẩn trong đấu tranh với lực lượng bất tương xứng, như một chiến lược nhằm thụ quyền cho những nhóm khiếu kiện (thiểu số bị đàn áp, hay đa số bị mất quyền lực) có được quyền lực hầu tìm ra những cách thức hữu hiệu và xây dựng để đạt được công lý, nhân quyền và dân chủ mà không cần dùng tới bạo lực. Những kỹ thuật bất bạo động vẫn thường được những nhóm đấu tranh cho một quyền lợi đặc thù nào đó, như quyền của công đoàn hay chống vũ khí nguyên tử, quyền […]

Read more

Augustine: Đi tìm Chân lý và Sự khôn ngoan — Luật Bất công Không phải là Luật

Lawrence W. Reed Friday, March 04, 2016 Viết về một người mà ai cũng biết là một nhà thần học—một giám mục của thời kỳ Giáo hội Công Giáo đầu tiên—[chắc hẳn] ai cũng nghĩ rằng đây là một bài viết về những vấn đề tôn giáo. Augustine người xứ Hippo (sau này được phong thành Thánh Agustine) là một vĩ nhân, bất khả tự nghị của của tư tưởng và giáo huấn Cơ-đốc[1] trong những tài liệu ông viết ra vào đầu thế kỷ 15 sau Công nguyên. Cho đến ngày nay, Augustine cũng vẫn là một vĩ nhân trong những tín hữu Công Giáo, Tin Lành, và Chính thống Giáo Cơ-đốc Đông phương. Augustine là một anh hùng vì ông đã thay đổi cuộc đời hoang đàng, trụy lạc của mình và chuyển hóa [thành một đời sống thánh thiện]. Khi Augustine quyết định sống cuộc đời mình theo những tiêu chuẩn và hạnh kiểm cao nhất và sự chiêm nghiệm hàn lâm, ông cống hiến những trí huệ tiền phong về tự do, [khái niệm làm] nền tảng cho triết học Tây phương. Ta không cần phải là người theo đạo này hay đạo nọ để học từ một người sinh ra hơn 16 thế kỷ trước đây. Tỉnh Africa của La-mã sau này không sản sinh được một nhân vật nào như Agustine nữa. Ông sinh năm 354 sau CN ở Thagaste, nay gọi là Souk Ahras, thuộc Alegeria ngày nay. Được sống trong thời đại đó là được sống trong một thời đại quan trọng. Đến thế kỷ thứ tư, nền Cộng hòa La-mã cổ và những sự tự do của nó đã bị dập tắt hơn 400 năm rồi, và được kế tục bằng một nhà nước càng lúc càng thối nát, chuyên chế, bại liệt vì chiến tranh và dân ăn bám nhà nước: chế độ đó chính là Đế quốc La-mã. Chế độ này kéo dài gần được một thế kỷ sau khi Augustine sinh ra đời. Ông đã chứng kiến Visigoths1 phá hủy “Thành phố Vĩnh cửu” của La-mã năm 410. Hai mươi năm sau đó, khi quân Vandals2 bao vây thành phố Hippo của Augustine ở Bắc Phi, ông mất ở tuổi 75. Cuộc đời ông là một bằng chứng cho thấy ngay cả khi thế giới quanh ta có sụp đổ thành cát bụi, ta vẫn có thể tạo ra sự khác biệt hầu thăng tiến tương lai của nhân loại. Tuổi trẻ của Augustine chỉ chú trọng vào khoái lạc và chỉ nghĩ đến ‘cái tôi,’ dù cho ông được bà mẹ ông là Monica, người theo Thiên Chúa giáo thuần thành hết lòng cầu nguyện. Cha của Augustine là một người thâu thuế, tính tình hay thay đổi và hung dữ, nhưng khi lâm chung đã cải đạo sang Thiên Chúa giáo, lúc đó Augustine còn là một thiếu niên. Augustine có một bản năng tình dục mạnh mẽ và đã làm ông dính dáng vào nhiều vụ tai tiếng khiến ông hối hận sau này. Dù là một sinh viên giỏi với khả năng hùng biện […]

Read more

Ukraine: Một Thắng lợi Bất bạo động

Peter Ackerman, Maciej Bartkowski, và Jack Duvall   Dân Ukraine không dùng những danh từ đao to búa lớn hay các hành động bạo lực để lật đổ nhà lãnh tụ chuyên chế và các tay sai của ông ta. Chống đối dân sự đã phá tan sự chính danh của một chính quyền áp bức và tham nhũng. Phong trào bất bạo động đã làm tan biến sự ủng hộ của dân chúng và lòng trung thành của phe hỗ trợ Victor Yanukovych. Ngày 25 tháng 2 hãng thông tấn Reuters News loan tin một thanh niên 25 tuổi, đã từng học quân sự tại trung tâm huấn luyện sinh viên sĩ quan, được coi như là người khiến cho Victor Yanukovych phải bỏ chạy. Thanh niên đó đã phát biểu trong một cuộc mít-tinh tại Kyiv, đả kích các nhà chính trị Ukraine đã toa rập “với tên sát nhân” khi họ thỏa hiệp với Yanukovych vào ngày hôm đó, thanh niên này đã đòi “ngày mai vào 10 giờ sáng Yanukovych phải ra đi” — có người cho rằng đó là một lời đe dọa sẽ sát hại. Như thường lệ, giới truyền thông đua nhau đăng tải hình ảnh các rào chắn và các lốp xe hơi bị đốt cháy. Bạo động thường được các giới truyền thông thích phổ biến, tuy nhiên điều này đã không xảy ra suốt trong thời gian 88 ngày của cuộc đấu tranh đưa Ukraine trở lại con đường dân chủ thực sự. Từ khi bắt đầu có các cuộc biểu tình tại Kyiv vào ngày 24 tháng 11 năm 2013 cho tới ngày Victor Yanukovych bỏ chạy khỏi thủ đô ngày 21 tháng 2 năm 2014, dân Ukraine đã liên tục dùng một loạt các chiến thuật bất bạo động khiến cho chính quyền phải khuất phục. Maidan Ba ngày sau ngày 21 tháng 11, khi chính quyền loan báo đã ngưng tiến hành một hiệp ước gia nhập Cộng đồng Âu châu, sự kiện này đã gây ra phản ứng phẫn nộ trong dân chúng: 100,000 người Ukraine đã cầm cờ Âu châu biểu tình tuần hành khắp trong thành phố, và một cuộc mít tinh của quần chúng đã chiếm đóng quảng trường Maidan ngay tại trung tâm thành phố. Cuộc biểu tình, mệnh danh là “Maidan,” đã liên tiếp diễn ra với sự tham dự của hàng ngàn người thường xuyên cắm lều tại quảng trường và sau đó hàng trăm ngàn người, kẻ đứng người ngồi, đã tham gia vào những cuộc biểu tình lớn vào cuối tuần. Trong ba tháng phản kháng, người dân Ukraine đã thực sự cố ý tạo ra một cộng đồng chính trị tự quản ngay tại quảng trường trong mùa đông lạnh lẽo. Trường đại học ngoài trời tại Maidan đã cung cấp hàng trăm cuộc thuyết trình và diễn đàn thảo luận suốt trong thời gian chiếm giữ quảng trường để trao đổi thông tin và huấn luyện quần chúng. Các luật sư đã phát động chương trình “Euromaidan SOS” để trợ giúp về pháp luật và tài chánh cho […]

Read more

Quyển VII

Chương 1 Những ai muốn tìm hiểu mô hình chính quyền nào là mô hình tốt đẹp nhất, trước hết, phải xác định xem một cuộc đời đáng sống nhất là một đời sống như thế nào. Khi ta còn chưa biết chắc về điều này, thì ta cũng không biết chắc được cái mô hình chính quyền nào là tốt đẹp nhất. [Tuy nhiên,] trong trật tự của thiên nhiên, ta có thể đoán được những người sống một đời sống tốt đẹp là những người được sống trong một chính thể tốt đẹp nhất mà hoàn cảnh cho phép. Do đó, trước hết, ta nên xác định thế nào là một cuộc đời đáng sống, và xét xem một đời sống như vậy có phải là một đời sống tốt đẹp nhất cho cả cá nhân và chế độ hay không? Trong những phần thảo luận bên ngoài Học Viện, ta đã bàn về những yếu tố tạo nên một đời sống tốt đẹp nhất; ở đây chỉ xin nhắc lại sơ lược. Chắc chắn ai cũng đồng ý rằng, để có một đời sống tốt đẹp, con người cần có ba “cái tốt” – vật chất, thể chất, và tinh thần. Chắc chắn rằng, chẳng ai có thể nói mình là người hạnh phúc mà lại nhút nhát đến nỗi sợ cả một con bọ bay qua, hay thiếu tiết độ và khôn ngoan mà phạm vào tội ác chỉ để thỏa mãn lòng ham mê ăn uống, hay hy sinh cả người bạn thân thiết vì những lợi ích cỏn con, hay có một thể chất và tâm tính yếu nhược như một đứa bé. Hầu như ai cũng công nhận những điều này, nhưng con người khác nhau về mức độ hoặc xếp những giá trị này có cao có thấp. Có người nghĩ rằng, chỉ cần một phần đạo đức vừa phải thôi là đủ rồi mà chẳng đếm xỉa gì đến việc giới hạn lòng ham muốn của cải, tài sản, danh vọng, quyền lực, vân vân. Đối với những người này, ta chỉ cần đưa ra những sự thật mà ai cũng công nhận; đó là, người ta không có đức hạnh hay không giữ được đức hạnh bằng vật chất bên ngoài, nhưng có được vật chất bên ngoài là nhờ vào đức hạnh. Còn những người có hạnh phúc, không kể hạnh phúc về thể xác hay tinh thần, thường là những người đã dày công tu dưỡng đức tính, tâm trí, và chỉ có một số vật chất bên ngoài vừa đủ, chứ không phải là những người có thừa mứa vật chất bên ngoài, nhưng lại nghèo nàn về đức tính. Nhận xét này không những chỉ là kết quả của kinh nghiệm, mà nếu nghĩ cho kỹ, sẽ thấy rất phù hợp với luận lý. Ta thấy rõ tất cả vật chất bên ngoài đều có giới hạn, và cũng như mọi dụng cụ, hoặc những thứ gì hữu dụng cho con người, thì khi có nhiều quá những thứ này sẽ làm hại con người, hoặc […]

Read more

Quyển V

Chương 1 Chúng ta đã luận qua bốn đề mục trong các chương vừa qua. Đề mục kế tiếp là về những nguyên nhân gây ra cách mạng, có bao nhiêu loại, và bản chất của những cuộc cách mạng này. [Ngoài ra,] còn phải xét xem loại chế độ nào thì dễ thoái hóa sang loại nào nhất, và những phương thức bảo tồn các chế độ nói chung và từng loại chế độ nói riêng, và cách thức nào sẽ là cách thức tốt nhất để bảo tồn chế độ. Đầu tiên ta phải giả thiết rằng trong những mô hình chính quyền đã được thiết lập đều có khát vọng công lý và bình đẳng, dù người ta vẫn chưa đạt được khát vọng này như tôi đã giải thích trước đây. Thí dụ như chế độ dân chủ được xây dựng trên khái niệm là những ai bình đẳng trên bất kỳ một phương diện nào thì cũng bình đẳng trên mọi phương diện: bởi vì mọi người đều có tự do như nhau, nên mọi người phải được tuyệt đối bình đẳng. Chế độ quả đầu dựa trên khái niệm là những ai không bình đẳng về một phương diện nào, thì cũng nhất thiết không bình đẳng trên mọi phương diện, thí dụ như sự bất bình đẳng về tài sản dẫn tới sự bất bình đẳng tuyệt đối. Những người dân chủ nghĩ rằng vì họ bình đẳng cho nên họ phải được bình đẳng trên mọi phương diện; còn những người theo quả đầu lại đòi hỏi hơn nữa cho rằng họ không bình đẳng với những người khác. Cả hai mô hình chính quyền này đều cho rằng chế độ của họ có một nền tảng công lý, nhưng nếu xét trên tiêu chuẩn tuyệt đối thì cả hai đều còn khiếm khuyết, và như vậy cả hai phe, khi mà không được tham gia vào chính sự theo như định kiến của họ, sẽ nổi loạn. Những người tài năng kiệt xuất là những người có lý lẽ vững chắc nhất để nổi loạn (vì chỉ có họ mới thực sự là không bình đẳng với người khác), nhưng những người này lại ít có khuynh hướng nổi loạn nhất. Còn có một loại ưu việt khác do những người cho rằng họ hơn người là vì xuất thân từ danh gia vọng tộc. Như thế, đây chính là cội nguồn của cách mạng, đưa đến hai loại thay đổi chế độ. Loại thứ nhất nhằm thay đổi hiến pháp, tức là thay đổi cơ cấu hiện hữu sang cơ cấu khác, như từ dân chủ sang quả đầu hay từ hai loại này sang chính thể theo hiến pháp hoặc quý tộc hay ngược lại. Loại thứ hai không nhằm thay đổi hiến pháp mà chỉ nhằm nắm những cơ quan chính quyền. Thêm vào đó phe cách mạng trong trường hợp này có thể gia giảm tính chất của chế độ, thí dụ chế độ dân chủ trở nên dân chủ hơn hay kém dân chủ hơn sau […]

Read more

Một thế giới mới của quyền lực

 Jack Duvall Jack Duvall, một nhà lãnh đạo xã hội dân sự có tầm vóc quốc tế, có trụ sở tại Washington D.C, hiện nay là Cố vấn Cao cấp và Giám đốc Sáng lập của tổ chức Trung tâm Quốc tế về Xung đột Bất bạo động, một tổ chức giáo dục tư nhân, phi lợi nhuận. Ông tự nhận mình là một người dân chủ cấp tiến chống lại mọi hình thức đàn áp con người. Trong dịp phát động mối quan hệ đối tác mới về sự Phản kháng Dân sự, ông đã chọn chủ đề cho bài xã luận trong tuần này là “Một Thế giới của sự Phản kháng Dân sự.” Ông viết như sau:  “Sự phản kháng dân sự” không phải chỉ có những sự phản đối, biểu tình tuần hành và bất tuân sân sự. Những chiến thuật này chỉ là những chiến thuật trong hàng trăm những chiến thuật tạo thành một cái kho tồn trữ những chiến lược chính trị độc lập để giúp cho người dân của bất kỳ nước nào hoạch định, sao cho cùng với nhau, họ có thể hoạt động để giành chiến thắng cho những quyền của họ, để đạt được công lý, chấm dứt nạn tham nhũng và những sự lạm dụng quyền hành khác, và thiết lập hay cải cách dân chủ. Sự thất bại của nhiều chính quyền trong việc việc thi hành những quyền căn bản và tôn trọng những lời hứa của kẻ cầm quyền đã khiến người dân, trên khắp thế giới, phải đòi hỏi bằng những phương tiện khác qua đó không những họ có thể đòi hỏi, mà còn có thể thúc đẩy những thay đổi họ mong muốn. Chào mừng các bạn đến với nơi lưu trữ đầu tiên trực tuyến một tập hợp sống gồm những bài viết và tham luận về sự phán kháng dân sự mà mọi người ở mọi nơi đều có thể truy cập. Tôi và những bạn đồng sự được tổ chức openDemocracy mời thiết lập phần này trên website của họ, để làm một diễn đàn trao đổi tư tưởng, thào luận và học hỏi về phản kháng dân sự, và chúng tôi rất vui khi làm việc này. Chúng tôi tin rằng phản kháng dân sự là chứng cớ hiện tại rõ rệt nhất của sự nổi lên mới mẻ của cơ quan xã hội-chính trị đang được thành hình song song với những cơ chế của quyền lực nhà nước: bầu cử chính trị, thảo luận nghị trường và cả những hành động của hành pháp, như một phương tiện qua đó người dân có thể tổ chức và đòi hỏi phải giải quyết những khiếu kiện của họ hầu đạt được những phúc lợi công của xã hội. Sự thất bại liên tục hay theo từng chu kỳ của những chính quyền—dù họ có ủng hộ những lý tưởng xứng đáng hay không—khi không thi hành những quyền căn bản và tôn trọng những lời hứa hẹn của kẻ cầm quyền, của những chính quyền trên cả […]

Read more