fbpx

Search Results for: Luận cương 11

Khế Ước Xã Hội

Lời Giới Thiệu Tác phẩm Jean-Jacques Rousseau ra đời trong Thời kỳ Khai sáng (Enlightenment) trong thế kỷ 18 của Âu châu. Tư tưởng và học thuật trong Thời kỳ Khai sáng chú trọng về lý tính (rationalism) và thực nghiệm. Trên căn bản duy lý và thực nghiệm, các triết gia thời kỳ này phủ nhận lề lối tư duy truyền thống về xã hội, tôn giáo, chính trị, và đề cao vai trò của khoa học. Họ đã từng tuyên bố: khoa học sẽ cứu chúng ta. Trong bài luận văn đoạt giải thưởng của Hàn lâm viện Dijon năm 1749, Rousseau đã tạo cho mình một tư thế riêng khi đưa ra những lập luận bác bỏ toàn bộ những tư duy thời thượng bấy giờ. Ông lập luận rằng càng văn minh thì đạo đức càng băng hoại, khoa học không cứu rỗi được con người, và “tiến bộ” chỉ là ảo tưởng, văn minh hiện đại không làm con người hạnh phúc hay đạo đức hơn. “Hạnh phúc chỉ đến với con người trong tình trạng thiên nhiên,” và đức hạnh chỉ xảy ra trong một xã hội đơn giản, nơi con người sống đời sống đạm bạc, chân chất. Những phát minh của khoa học, những sáng tạo của nghệ thuật, theo ông, chỉ là những “chùm hoa phủ lên trên xiềng xích trói buộc con người, khiến họ quên đi sự tự do nguyên thủy có từ lúc mới sinh ra, và quên đi mất là đang cam thân làm nô lệ trong kiếp sống văn minh.”[1]. Về điểm này, tư tưởng của Rousseau khá gần với Mặc Tử, nhà tư tưởng cổ Trung Hoa, người chủ trương thuyết công lợi và lên án các sự xa xỉ, xa hoa; ngay cả âm nhạc cũng bị Mặc tử lên án là vô bổ, làm sa đọa con người (trong khi Nho gia có cả Kinh Nhạc trong Ngũ Kinh). Mặc dù tư tưởng của Rousseau trực tiếp phản bác tư duy đương thời, Hàn lâm viện Dijon vẫn trao giải nhất cho luận đề của ông. Đây cũng là nền tảng tư tưởng của Rousseau để từ đó ông viết nên tác phẩm bất hủ Khế ước Xã hội. Khế ước Xã hội gồm 4 quyển, mỗi quyển có từ mười tới mười lăm chương. Trong lời mở đầu Rousseau viết: “Với bản chất con người như ta biết, và với tính chất có thể xẩy ra của luật pháp, tôi muốn tìm xem trong trật tự của một xã hội dân sự có thể có một luật lệ cai trị nào cho chắc chắn và hợp tình hợp lý…” Trong cuộc hành trình này, Rousseau cũng như các nhà tư tưởng trước ông như Thomas Hobbes và John Locke đều bắt đầu từ nguyên thủy, nhận diện con người trong trạng thái thiên nhiên của nó. Mở đầu chương thứ nhất Rousseau viết: “Con người sinh ra được tự do, nhưng ở đâu nó cũng bị xiềng xích.” Đối với Rousseau, tự do là điều kiện thiết yếu để con người là […]

Read more

Nền tảng Đạo đức của Chủ nghĩa Tự do

Nền tảng Đạo đức[1] của Chủ nghĩa Tự do Bo LI “Khi nghiên cứu về sự hình thành và cơ cấu của xã hội, họ luôn luôn hướng đến câu hỏi tối hậu là để làm lợi cho ai?” – Stephen Holmes Chủ nghĩa Tự do là một tập hợp những giá trị và định chế. Nền tảng đạo đức của các giá trị và định chế này là gì? Đó là chủ đề chính của tiểu luận này. Trước khi bắt đầu, có điểm ta cần lưu ý. Khi tôi dùng từ “chủ nghĩa tự do” hay “tự do” trong tiểu luận này, tôi dùng theo nghĩa mà đa số khoa học gia về chính trị thường dùng trong những tác phẩm hàn lâm liên quan đến lịch sử tư tưởng chính trị. Trong những tác phẩm này, “chủ nghĩa tự do” có nghĩa là những giá trị và định chế được xem là “chính thống” và đã có ảnh hưởng lớn lao đến thế giới phương Tây qua hơn 200 năm. Những điều này gồm có: nam và nữ được xem là tự do và bình đẳng, những quyền cá nhân được bảo vệ, quyền lực của chính quyền bị hạn chế, và chủ nghĩa hiến pháp trị và pháp trị[2] là những định chế không thể thiếu được. Một số tác giả vẫn thích sử dụng cụm từ “chủ nghĩa tự do cổ điển” để nói đến cái tập hợp những giá trị và định chế đề cập ở trên. Trong tiểu luận này, tôi sẽ dùng “chủ nghĩa tự do” và “chủ nghĩa tự do cổ điển” thay đổi cho nhau khi những thuật ngữ này được dùng để miêu tả những mệnh đề cốt lõi của chủ nghĩa tự do, những điều cơ bản mà qua hơn 200 năm hầu như vẫn còn được giữ nguyên. Trong tác phẩm của những nhà tư tưởng tự do cổ điển, ta thấy hiển lộ hai luận đề tương phản với nhau một cách rõ ràng. Thứ nhất là định đề tổng quát cho rằng mọi hành vi của con người đều được hướng dẫn bởi lý trí nhằm tới lợi ích cá nhân. Tôi sẽ gọi định đề này là “định đề lợi ích cá nhân phổ quát” hay đơn giản hơn là “định đề lợi ích cá nhân.” Thứ hai, có một điều, mà hầu như ai cũng công nhận, là lợi ích cá nhân theo lý trí, trong rất nhiều trường hợp, không diễn tả được  động cơ của những hành vi của con người; thay vì tuân theo lý trí, người ta, rất nhiều lúc, vẫn có những hành vi được khích động bởi nhiệt tình, bởi những tình cảm không hợp lý, hoặc sự tin tưởng ngây thơ, hoàn toàn không có sự toan tính nào hết. Tôi gọi đây là “định đề lý trí có giới hạn.” Hai định đề này về hành vi ứng xử của con người tạo nên nền tảng đạo đức của chủ nghĩa tự do. Một cách cụ thể hơn, định đề lợi ích cá nhân phổ […]

Read more

Xã Hội Dân Sự

LỜI GIỚI THIỆU   Xã Hội Dân Sự là gì? Câu hỏi này lại được các học giả về chính trị đặt ra trong hai thập niên vừa qua khi làn sóng dân chủ thứ ba tràn lên trong những thập niên cuối của thế kỷ 20. Sở dĩ các nhà nghiên cứu chính trị đặt vấn đề xã hội dân sự vì trong tất cả các nước chuyển hóa sang dân chủ đều luôn luôn có sự hiện diện của một “xã hội dân sự” sinh động. Từ đó xã hội dân sự trở thành một đề tài nghiên cứu để xem có tương quan “nhân quả” nào giữa các hoạt động của xã hội dân sự và tiến trình dân chủ hóa hay không. Trong chiều hướng đó, Học Viện Công Dân tuyển dịch các tài liệu, tiểu luận liên quan đến xã hội dân sự nhằm tạo cơ hội cho độc giả Việt Nam tiếp cận các tư tưởng, lý luận về xã hội dân sự của Tây phương, đồng thời cũng góp phần xây dựng cơ sở tài liệu cho lý luận và thực hành xây dựng xã hội dân sự tại Việt Nam. Khái niệm xã hội dân sự đã được các triết gia về chính trị thuộc thời kỳ Khai Sáng ở Âu châu sử dụng, và khái niệm này đã theo thời gian mà thay đổi cho đến ngày hôm nay. Các tư tưởng gia như Hobbes, Locke, Rousseau dùng xã hội dân sự (civil society) để chỉ một trạng thái xã hội khi con người đã bắt đầu sống quần tụ với nhau, khác với trạng thái thiên nhiên (state of nature). Xã hội càng phát triển thì lại càng nẩy nở thêm nhiều sắc thái và bộ phận khác nhau; do đó, các nhà tư tưởng thuộc thế kỷ 19 và thế kỷ 20 như Hegel, Marx, Gramsci, Diamond, v.v… đều có những khái niệm không giống nhau, và không thể thống nhất về một định nghĩa cho xã hội dân sự. Tuy nhiên, các học giả thuộc thế kỷ 20 đều đồng ý trên mẫu số chung sau đây của xã hội dân sự. Đó là sự hiện hữu của một lãnh vực công nằm giữa nhà nước, thị trường, và cá nhân. Chính trong lãnh vực công này (public sphere) mà các công dân hoạt động “nhằm biểu tỏ các mối quan tâm, tư tưởng, trao đổi thông tin, thực hiện các mục tiêu chung có tính chất hỗ tương, kiến nghị với nhà nước và buộc các viên chức nhà nước phải chịu trách nhiệm trong công vụ” (Diamond, 1994). Theo Brian O’Connell, chủ tịch sáng lập của Independent Sector, lãnh vực công là miền hội tụ của 5 thành tố sau: Thành tố đầu tiên là các cá nhân, tiêu biểu cho quyền lợi riêng tư. Thành tố thứ hai là cộng đồng bao gồm gia đình, làng xóm, chùa chiền, các hội đoàn, vân vân; cộng đồng là nơi các cá nhân sinh hoạt và phát triển và cũng là nơi đại diện cho các quyền […]

Read more

Luật Pháp Là Gì?

 Lý Ba  Perspective, số 4, bộ 2 Gần đây có rất nhiều thảo luận về việc thiết lập nền móng pháp trị tại Trung Hoa. Muốn xây dựng pháp trị ở Trung Hoa, theo tôi, thì cải cách tòa án không thôi cũng chưa đủ mà còn phải cải cách cả cách thức làm luật. Để tìm hiểu lập luận này, chúng ta cần phải hiểu bản chất của luật pháp là gì. Trong hai mươi năm vừa qua, Trung Quốc đã ban hành hàng nghìn điều luật. Trong nhiều lãnh vực, đã có khuynh hướng “quá tải lập pháp” (over-legislate). Ví dụ, trong luật hành chính, một số bộ luật vô hiệu quả với tầm nhìn hạn hẹp đã được, hoặc nhanh chóng sẽ được, ban hành. Những luật này gồm có: Luật tố tụng hành chính (1989), Luật quốc gia về bồi thường (1993), Luật trừng phạt-xử lý hành chính (1996), Luật bồi thường hành chính (1999), Luật hành pháp (lập pháp) (2000), Luật cưỡng chế hành chính (đang được thảo), Luật cấp giấy phép, Luật thủ tục hành chính (đang được xem xét), Luật về mua của nhà nước (đang được xem xét) v.v…Tệ hại hơn nữa, những luật chung chung-phổ thông này đan xen với hàng trăm sắc lệnh hành chính và nghị định ở trung ương, tỉnh và địa phương, thường gây ra sự rối rắm và bất định, và một số những luật này dùng ngôn ngữ được viết với ý nghĩa rất hạn hẹp và có thể bị luồn lách dễ dàng. Một số lớn những luật này không được soạn thảo kỹ càng và có phẩm chất kém, và rất nhiều luật không được (áp chế) thi hành; do đó, cả công chức lẫn thường dân đều không thèm đếm xỉa đến. Sự việc này góp phần vào việc thiếu tôn trọng luật pháp nói chung ở Trung Quốc. Rất nhiều những luật như vậy là kết quả của nếp suy nghĩ “đau đâu chữa đấy.” Cách thức làm luật “quá tải” “hạn hẹp”này cần phải được thay đổi nếu chúng ta muốn thiết lập pháp trị ở Trung Quốc. Ban hành hàng nghìn đạo luật (sắc lệnh) chưa hẳn là thiết lập được pháp trị. Điều chúng ta cần không phải là bất cứ khi nào tiện lợi thì ra luật, mà là ban hành pháp luật trong khuôn khổ của pháp trị. Về cơ bản, sự “quá tải-lập pháp” bắt nguồn từ sự nhận thức sai lầm về bản chất của luật pháp. Luật pháp là gì? Để trả lời câu hỏi này, cần phải tiến hành một cuộc thí nghiệm trong tư tưởng. Hãy thử tưởng tượng ra một trạng thái nguyên thủy theo như mô hình của Locke [nhà triết học Anh], trong đó không có nhà nước, không có chính quyền, và không có cả xã hội con người. Điều đó có nghĩa là không có luật pháp trong trạng thái nguyên thuỷ không? Câu trả lời là không. Vẫn có luật trong trạng thái nguyên thuỷ chứ; người ta vẫn phân biệt được cái gì sai […]

Read more

Tác Động của WTO Đến Quy Tắc Thượng Tôn Pháp Luật tại Trung Hoa

Martin G. Hu Nam Chi chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng AnhLGT. Nay đến lượt Việt Nam được gia nhập WTO. So sánh với Trung Hoa, Việt Nam có nhiều điểm tương đồng về chính trị, kinh tế, và xã hội. WTO ảnh hưởng đến Trung Hoa như thế nào, thì cũng rất có thể ảnh hưởng đến Việt Nam như vậy. Tiểu luận dưới đây của Martin Hu, một luật gia Trung Hoa có tên tuổi tại Hoa Kỳ và Trung quốc, nhận định về ảnh hưởng của WTO tới cải cách luật pháp tại Trung Hoa. Không còn nghi ngờ gì nữa, Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) sẽ chính thức đưa Trung quốc gia nhập hoàn toàn vào hệ thống mậu dịch thế giới. Không giống bất cứ thỏa ước nào khác, đặc điểm duy nhất của WTO là nó có một hệ thống giải quyết tranh chấp vững vàng, có tên gọi là Ban Giải Quyết Tranh Chấp (the Dispute Settlement Body (DSB), được WTO giao quyền phân xử những tranh chấp giữa các nước hội viên và quan trọng hơn nữa là thi hành những phán quyết đã đưa ra. Cứ xem từ trước tới nay nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chưa hề chấp nhận quyền tài phán của một cơ quan quốc tế nào, nói chi tới việc thi hành những phán quyết bất lợi cho họ, nay họ chịu chấp nhận Cơ Quan Giải Quyết Tranh Chấp (DSB) thực quả là một cam kết lớn lao. Hiểu như thế, WTO đã có một tác động chưa từng có tới quy tắc Thượng Tôn Luật Pháp. Nguyên tắc pháp lý căn bản của WTO Mặc dù rất nhiều nguyên tắc có thể trích dẫn từ thỏa ước của WTO, những điều sau đây là nổi bật nhất: Giảm mức thuế quan, một điều khoản hiển nhiên khỏi giải thích. Thương mại công bình, cấm xuất khầu phá giá hoặc được nhà nước trợ cấp (Các điều khoản 6 và 16 của Hiệp Định Chung Về Thuế Quan và Thương Mại (GATT) Tính trong sáng, đòi hỏi các nước hội viên phải ban hành và bảo vệ một cách minh bạch các luật lệ, qui ước, quyết định tư pháp và hành chính liên quan tới thương mại. Chống đối xử phân biệt, bao hàm nguyên tắc đối xử đồng đều, cấm việc xem các sản phẩm ngoại nhập tệ hơn các sản phẩm nội hóa của người trong nước (nationals) về phương diện thuế má, lệ phí, cũng như các luật lệ và điều kiện khác (điều khoản thứ 13 của GATT). Đó chính là viên đá nền tảng của WTO vốn gây nhiều tranh cãi giữa các nước hội viên của WTO. Tác động của WTO Tất cả những nguyên tắc pháp lý trên đây của WTO sẽ góp phần hình thành và phát triển tinh thần Thượng Tôn Luật Pháp ở Trung quốc. Một hậu quả trực tiếp của việc giảm thuế quan là tăng cường giao dịch thương mại giữa Trung quốc và thế giới. Tất cả các […]

Read more

Pháp Trị Là Gì?

Bo LI (Lý Ba) “Chúng ta được tự do vì chúng ta sống với dân luật” –Charles de Secondat Montesquieu– “Pháp trị” là một trong những khái niệm luôn được nói tới nhưng hiểu biết rất ít trong truyền thông đại chúng và đối thoại hàng ngày ở Trung Quốc hiện nay. Vậy pháp trị là gì? Tầm mức quan trọng của nó ra sao? Phải chăng có pháp trị là không có “nhân trị”? Pháp trị có những điều kiện thể chế và hàm lượng văn hóa gì? Làm sao để chúng ta đạt được nền pháp trị? Tôi dự định giải đáp những thắc mắc vừa nêu với một loạt bài tiểu luận. Trong bài này, tôi sẽ chú trọng đến ý nghĩa và giá trị của pháp trị. Trong tiểu luận kế (phát hành số tháng 6 của Perspectives), tôi sẽ bàn tới vấn đề thực thi pháp trị. Khởi đầu, tôi muốn lưu ý rằng ngày nay khi nói đến “pháp trị”, chúng ta nói đến một vấn đề hoàn toàn khác hẳn với quan niệm “pháp trị” như một phương tiện của các pháp gia thời thượng cổ trong lịch sử Trung Hoa. Ngày nay khi nói tới “pháp trị”, chúng ta muốn mô tả bộ phận chủ yếu của nền trật tự xã hội và chính trị tìm thấy tại Hoa Kỳ và các nước tự do dân chủ thời đại hiện tại. Nói cách khác, bàn tới “pháp trị”, chúng ta muốn nói tới một truyền thống Tây phương phát xuất từ cộng hòa La Mã và đã được phát triển toàn vẹn bởi thuyết hiến pháp trị tự do, mà đặc điểm của nó, qua lời của Max Weber, là “ưu thế của luật pháp”. Khác biệt giữa “dụng pháp trị” [*] và “pháp trị” thật quan trọng. Sống dưới “dụng pháp trị,” luật pháp là một công cụ của chính quyền, và nhà cầm quyền ở trên pháp luật. Trái hẳn lại, sống dưới “pháp trị,” không một ai vượt qua luật pháp, kể cả chính quyền. Cốt lõi của “pháp trị” là một cơ chế luật pháp độc lập. Theo pháp trị, quyền hạn của luật pháp không lệ thuộc quá nhiều vào tính chất phương tiện của luật, mà vào mức độ độc lập của luật, tức là tùy vào mức độ khác biệt và biệt lập giữa pháp luật với những cơ cấu tiêu chuẩn khác như chính trị và tôn giáo. Là một trật tự luật pháp độc lập, pháp trị có ít nhất ba ý nghĩa. Thứ nhất, pháp trị là công cụ điều chỉnh quyền lực của chính phủ. Thứ hai, pháp trị là sự bình đẳng trước pháp luật. Thứ ba, pháp trị là thẩm quyền tài phán phải tuân theo thủ tục tố tụng đã được ấn định trước. Chúng ta sẽ bàn về từng ý nghĩa này của pháp trị. Thứ nhất, là công cụ điều chỉnh quyền lực, pháp trị có hai nhiệm vụ: giới hạn sự chuyên quyền và lạm quyền của chính phủ, đồng thời khiến cho chính phủ […]

Read more

ILIAD

LỜI GIỚI THIỆU Theo sử gia Tây Âu, cách đây khoảng bốn ngàn năm khi châu Âu chưa thành hình, quốc gia, dân tộc trên lục địa chưa xác định rõ rệt như ngày nay, có bộ lạc cao lớn, tóc vàng, sử gia không rõ thế nào, rời rừng núi mạn bắc kéo xuống bờ biển, đồng bằng mạn nam, băng qua thung lũng Vardar  tiến về phía đông, vượt eo biển Hellespont vào Tiểu Á. Cùng thời gian, một phần bộ lạc rẽ sang phía tây lấn chiếm Nam Âu, định cư trên phần đất sau này gọi là Hellas, bên ngoài gọi là Hy-lạp. Bộ lạc đó có lẽ không đông đảo, và có vẻ không do duy nhất một người chỉ huy. Tới nơi gặp thổ dân họ gọi là Pelasgian, tên gọi tùy tiện không đặt vấn đề nguồn gốc hay chủng tộc, ngày nay gọi là Helladic, người thuộc văn hóa thời kỳ đồ đồng. Họ không gọi họ là người Hy-lạp mà gọi họ là người Achaian, người Argive hoặc người Danaan, nghĩa là thần dân quân vương huyền thoại Danaus sinh nhiều công chúa. Họ là chủng tộc gan dạ, kiên cường, song bán khai. Trái lại, dân tộc họ chinh phục đã hấp thụ văn minh mấy thế kỷ và đã trở thành bộ phận của văn minh Minoan phong phú kết tụ trên đảo Krete cực nam quần đảo. Kết quả là văn hóa mới ra đời, văn hóa Mycenaean, bao gồm nhân tố mạn bắc và nhân tố mạn nam do pha trộn chủng tộc, song thủ lĩnh chỉ huy là người xâm lược. Tiếng nói là (hoặc ít nhất trở thành) tiếng nói của người mạn bắc, tuy thế vài vùng vẫn giữ tiếng nói Helladic hoặc Pelasgian. Liều lĩnh, buông tuồng, ra đi là để cướp phá, chiếm địa điểm chủ chốt của người vùng biển Aegean, họ dần dần tiêm nhiễm lối sống cùng nhiều mặt nghệ thuật, song vẫn bảo tồn tư tưởng, nếp sống tinh thần của mình khiến văn hóa của họ ở nhiều điểm khác văn hóa của người trước họ. Mất nhiều năm họ mới hoàn thành cuộc chinh phục. Dẫu thế sau đó khá lâu họ vẫn là chủng tộc hiếu chiến, sống trên đầu trên cổ thổ dân lao động hàng ngày trên dải đất cằn cỗi. Nghỉ ngơi quá lâu, hòa bình kéo dài, cuộc sống trở nên nhàm chán, họ quay ra gây chiến lẫn nhau hoặc dong buồm xuôi ngược cướp phá vùng biển lân cận. Lúc nhàn rỗi, để giải trí tìm vui, họ quây quần bên nhau ngồi nghe kể chuyện – thành tích anh hùng Achaian, chiến công trên mặt biển, trên đất liền hay chuyện nam thần, nữ thần, do yêu thương hay giận dữ, tham gia kỳ lạ vào sinh hoạt trần thế. Vì không định cư cùng nơi trên đất liền cũng như dọc bờ biển Tiểu Á đầy dẫy chướng ngại tự nhiên, họ chia thành nhiều nhóm sống rải rác trên lục địa và hải đảo.[1]  Vì thiếu […]

Read more

Dân Chủ Là Một Phương Tiện, Không Phải Là Cứu Cánh

Michael Munger “Các nước dân chủ có những quyền tự do cá nhân, quyền tư hữu và tinh thần thượng tôn luật pháp, nhưng đó không phải là nhờ dân chủ. Thật ra các quốc gia đó đã cócác ưu điểm đó ở trong tất cả những cái mà người ta gọi là truyền thống chínhquyền tốt của Tây phương.” Ai cũng thích dân chủ. Nếu hỏi một người Mỹ là có hình thức cai trị nào tốt hơn thì người đó sẽ cảm thấy như bị xúc phạm. Quý vị cũng tin vào dân chủ phải không? Nhưng mà như vậy quý vị tin vào cái gì? Khi nghĩ về dân chủ người ta cho đó là tổng hợp mơ hồ gồm các yếu tố như một chính quyền tốt, bảo vệ quyền cá nhân, sự tham gia chính trị rất là rộng rãi, một xã hội trong đó mọi giới đều được hưởng chung sự phồn vinh kinh tế. Nhưng] ta cũng có thể cộng vào danh sách này những khái niệm như chỉ số lý tưởng về trọng lượng của con người và công thức nấu bánh kẹp. Thêm những điều này vào thì cũng tốt thôi, nhưng chẳng có ý nghĩa gì cả, và rất ít người chịu suy nghĩ xem thực sự dân chủ có ý nghĩa như thế nào. Ca ngợi các thành quả đã đạt được trong thể chế dân chủ là một điều tốt. Nhưng ca ngợi như vậy là lẫn lộn giữa nguyên nhân và hậu quả. Cái lý do mà những nước dân chủ có quyền tự do cá nhân, quyền tư hữu, và [nguyên tắc] pháp trị, không phải là vì đó là những nước dân chủ, mà phải nói cho đúng là những nước nào có được những quyền và nguyên tắc đó là những nước được thừa hưởng toàn bộ và trọn góitruyền thống “chính quyền tốt” của Tây phương. Cái truyền thống này đòi hỏi mọi hành vi của chính quyền phải được đặt trên sự đồng ý của người dân, và chính là mối dây ràng buộc tất cả những điều này thành một gói, chứ không phải là chính cái gói đó. Fareed Zakaria đã xác định cái vấn nạn “trọn gói” này một cách hoàn hảo như sau: Đối với người Tây phương dân chủ có nghĩa là dân chủ tự do, tức là một hệ thống chính trị có những đặc điểm không những là bầu cử tự do và công bằng, mà còn có sự cai trị theo luật pháp, sự phân quyền và sự bảo vệ các quyền tự do căn bản về ngôn luận, hội họp, tôn giáo và sở hữu tài sản. Tuy nhiên, cái tập hợp các quyền tự do đó – chúng  ta có thể gọi là quyền tự do theo hiến pháp – tự nó không có liên hệ gì tới dân chủ.  Thực ra các quyền tự do đó không phải lúc nào cũng đi đôi với dân chủ, ngay cả trong các nước Tây phương.Chính Adolf Hitler đã trở thành quốc trưởng Liên […]

Read more

Dân chủ như một Giá trị Toàn cầu

Amartya Sen Amartya Sen, đoạt giải Nobel Kinh tế năm 1998, là giáo sư Kinh tế học tại đại học Trinity, Cambridge, và đại học Harvard. Bài tham luận dưới đây là diễn văn chính trong buổi hội thảo tại New Delhi về “Xây dựng Phong trào Dân chủ Toàn Thế giới” do Quỹ Yểm trợ Dân chủ Quốc gia, Liên minh Kỹ nghệ Ấn độ, và Trung tâm Nghiên cứu Chính sách (New Delhi) đồng tổ chức. Tham luận này dựa trên cuốn sách của tác già mang tựa đề “Phát triển chính là Tự do,” do nhà Alfred Knopf ấn hành. Vào mùa hè năm 1997, một nhà báo hàng đầu của Nhật Bản có hỏi ý kiến của tôi xem điều gì đáng được coi là quan trọng bậc nhất đã xảy ra trong thế kỷ 20. Tôi cảm thấy đây quả là một câu hỏi bất thường khiến cho ta phải suy nghĩ, vì trong thế kỷ qua có biết bao điều trọng đại đã xảy ra. Các đế quốc ở Âu châu, nhất là đế quốc Anh và Pháp từng một thời thống trị thế kỷ mười chín, nay đã chấm dứt. Chúng ta cũng đã chứng kiến hai cuộc đại chiến. Ta đã chứng kiến sự nổi dậy và suy tàn của chủ nghĩa Phát-xít và Quốc xã. Thế kỷ này cũng chứng kiến sự nổi dậy của chủ nghĩa Cộng sản và sự suy tàn của nó (như ở tại khối Xô-viết) hay sự biến chất từ căn bản của chủ nghĩa này (như ở Trung Hoa). Ta cũng thấy một sự thay đổi cán cân kinh tế với một đầu nặng ở Tây phương sang một sự cân bằng kinh tế với sức nặng tương đương ở Nhật Bản và các nước thuộc Đông Á và Đông Nam Á. Mặc dù vùng này cũng đang trải qua những vấn nạn kinh tế và tài chính, nhưng những vấn nạn này cũng không làm mất được thế cân bằng kinh tế thế giới đã xảy ra trong nhiều thập niên vừa qua (trong trường hợp Nhật Bản, hầu như gần một thế kỷ). Một trăm năm qua, quả thật, không thiếu gì những biến cố quan trọng. Tuy nhiên, trong số những sự phát triển lớn lao và khác nhau xảy ra trong thế kỷ 20, sau rốt, tôi chẳng thấy khó khăn gì khi chọn một sự phát triển ưu việt nhất trong thời đại này: đó là sự phát triển của chế độ dân chủ. Nói thế không có nghĩa là các sự kiện khác trong cùng thời không phải là không quan trọng, nhưng tôi sẽ lập luận rằng trong một tương lai không xa, khi người ta nhìn lại những gì đã xảy ra trong thế kỷ này, họ sẽ phải nhìn nhận sự phát triển của chế độ dân chủ-một chế độ chính trị được công nhận là ưu việt-xứng đáng được xem là quan trọng nhất. Ý tưởng về dân chủ phát xuất, dĩ nhiên, từ cổ Hy lạp, hơn hai ngàn năm trước. Những nỗ lực rời […]

Read more

Nhân Quyền và Các Giá Trị Á Đông

Amartya Sen Lời Giới Thiệu: Trong tiểu luận này Amartya Sen, nhà kinh tế học người Ấn độ, người đoạt giải Nobel về Kinh Tế, phản bác những lý luận của các nhà độc tài tại Á châu cho rằng Nhân Quyền và Tự Do không phải là các giá trị Á Đông nên không thích hợp với văn hóa Á Đông. Trong tiểu luận này Sen cũng phản bác thái độ cao ngạo của những kẻ tự phụ Tây phương là đem ánh sáng văn minh, trong đó có nhân quyền và tự do, đến cho các dân tộc Á Đông. Tất cả những lập luận của Sen được đặt trên những khảo cứu khoa học về các nền văn hóa Đông, Tây và kết luận một cách khẳng định là nhân quyền và tự do là những giá trị của con người nói chung, vượt qua biên giới của lãnh thổ và thời gian. Năm 1776 khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập vừa được công bố ở Hoa Kỳ thì, trong tiểu luận Common Sense, Thomas Paine[1] đã than rằng Á châu “từ lâu đã tống xuất” tự do ra khỏi lục địa này. Trong lời than này Paine thấy rằng Á châu cũng đồng hội đồng thuyền với nhiều nước khác trên thế giới (ông mong rằng Hoa Kỳ sẽ khác họ): “Tự Do bị người ta săn lùng ở khắp nơi trên hoàn cầu. Á châu và Phi Châu đã tống xuất tự do ra ngoài từ lâu. Âu Châu xem tự do như một kẻ xa lạ và Anh Quốc đã cảnh cáo là tự do phải rời khỏi xứ họ.” Đối với Paine, tự do chính trị và dân chủ ở bất kỳ nơi nào cũng là điều vô cùng quý báu, nhưng lại bị vi phạm ở hầu như tất cả mọi nơi. Hiện nay trong nhiều vùng khác nhau trên thế giới, quyền tự do và dân chủ vẫn tiếp tục bị vi phạm, tuy không toàn diện như dưới thời của Paine. Nhưng vẫn có sự khác biệt. Một kiểu lý luận mới đã được dùng để phủ nhận tính quan trọng toàn cầu của những quyền tự do này. Lập luận đáng chú ý nhất được dùng trong các cuộc tranh luận này là trong hệ thống giá trị của Á Đông tự do không được coi trọng như ở Tây Phương. Vì sự khác biệt về hệ thống giá trị, lập luận này dẫn đến một kết luận là Á Đông phải trung thành với hệ thống triết lý và các ưu tiên chính trị của mình. Trong Hội Nghị Thế Giới về Nhân Quyền tại thành phố Vienna năm 1997, phái đoàn của các chính phủ đã nhấn mạnh những khác biệt về văn hóa và giá trị giữa Á Đông và Tây Phương. Bộ trưởng Ngoại giao của Singapore đã lên tiếng cảnh cáo là “sự thừa nhận toàn cầu về lý tưởng nhân quyền có thể gây nên tai hại, nếu thuyết phổ biến toàn cầu này được dùng để chối bỏ hoặc che đậy cho […]

Read more