fbpx

Những Bài Diễn Văn Kinh Điển

Chúng ta không có thì giờ để mất

LGT. Đây là diễn văn của Thủ tướng Đức Angela Merkel đọc tại Lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ, ngày 3 tháng 11, 2009, chỉ vài ngày trước ngày kỷ niệm 20 năm bức tường Bá linh bị sụp đổ.

Thưa Bà Chủ tịch Hạ viện, thưa Phó tổng thống, thưa quý vị dân biểu và nghị sĩ,

Tôi muốn ngỏ lời cám ơn quý vị đã dành cho tôi một vinh dự được thưa chuyện với quý vị hôm nay, chỉ vài ngày trước ngày kỷ niệm 20 năm bức tường Bá linh sụp đổ.[1]

Tôi là thủ tướng thứ hai của Đức quốc có được vinh dự này. Vị đầu tiên là thủ tướng Konrad Adenauer khi ông nói chuyện trước lưỡng viện Quốc hội năm 1957.

Tuy chúng tôi, kẻ trước người sau, được thưa chuyện với quý vị, cuộc đời của chúng tôi quá khác xa nhau. Năm 1957, tôi chỉ là một đứa bé ba tuổi. Tôi sống với cha mẹ tại Brandenburg, một vùng đất thuộc Cộng hoà Dân chủ Đức (CHDCĐ), phần đất không được tự do của Đức quốc. Cha tôi là một mục sư Tin lành. Mẹ tôi học Anh ngữ và tiếng La tinh để trở thành một giáo viên, nhưng không được cho phép đi dạy ở CHDCĐ.

Năm 1957, Konrad Adenauer đã 81 tuổi rồi. Ông ấy đã sống qua thời đại Đế quốc Đức, đệ Nhất Thế chiến, Cộng hoà Weimar và đệ Nhị Thế chiến. Đảng Quốc xã đã loại trừ ông khỏi chức vụ thị trưởng của thành phố Cologne. Sau chiến tranh, ông là một trong số những người đã góp phần xây dựng nước Cộng hoà Liên bang Đức dân chủ và tự do.

Không có điều gì có thể làm biểu tượng của Cộng hoà Liên bang Đức cho bằng bản hiến pháp Đức, bộ Luật Căn bản, “Grundgesetz.” Bản hiến pháp này được phê chuẩn đúng 60 năm trước đây. Điều 1 của Grundgesetz tuyên xưng, và tôi xin trích, “Phẩm giá của con người sẽ không thể bị vi phạm.” Câu nói ngắn, đơn giản này là câu trả lời cho cái thảm hoạ đệ Nhị Thế chiến, cho sự sát hại 6 triệu người Do thái trong cuộc diệt chủng Holocaust, cho sự thù hận, tàn phá và huỷ diệt mà nước Đức đã gây ra cho Âu châu và thế giới.

Chỉ còn vài ngày nữa là đến ngày mùng 9 tháng 11. Đúng vào ngày 9 tháng 11 Bức tường Bá linh sụp đổ, và cũng vào ngày đó năm 1939 một dấu vết không thể gột rửa đã hằn lên ký ức của nước Đức và lịch sử của châu Âu. Đúng ngày đó đảng Quốc Xã đã đập phá và phóng hoả các đền thờ Do thái giáo, và sát hại không biết bao nhiêu người. Đó là sự khởi đầu dẫn đến sự phân cách với văn minh, dẫn đến đại hoạ Shoah.[2] Tôi không thể đứng đây trước mặt quý vị mà không nhớ tới những nạn nhân của ngày đó và của Shoah.

Và tôi không thể đứng trước quý vị hôm nay mà không nhắc đến lòng biết ơn sâu xa của tôi trước sự hiện diện của một vị khách, người đã chính mình trải qua sự kinh hoàng của chủ nghĩa Quốc Xã tại Đức và là người chính tôi đã được gặp mặt: Giáo sư Fritz Stern.

Ông sinh năm 1926 ở một nơi mà lúc đó là thành phố Breslau của Đức và ngày nay là thành phố Wroclaw của Ba-lan. Ông và gia đình đã trốn thoát được chế độ Nazi năm 1938 và chạy trốn được sang Mỹ. Trong cuốn tự truyện của ông, ấn hành năm 2006 dưới tựa đề “5 Nước Đức mà tôi biết,” Fritz Stern mô tả cái giây phút khi ông đặt chân đến cảng New York năm 1938, một chốn dung thân của tự do và an ninh.

Thưa quý vị, thật là điều kỳ diệu của lịch sử đã sắp đạt để cho cả hai chúng tôi—một cậu bé 12 tuổi bị đuổi ra khỏi nước Đức và tôi, Thủ tướng của nước Đức tái thống nhất, người được sinh ra dưới nước Đông Đức—cùng có mặt nơi đây, trong toà nhà nổi tiếng này. Điều này khiến tôi tràn đầy vui sướng và biết ơn.

Ngay cả trong những giấc mơ kỳ quái nhất tôi cũng không thể tưởng tượng được, hai mươi năm trước khi Bức tường sụp đổ, là điều này có thể xảy ra. Điều này vượt quá sức tưởng tượng lúc đó để nghĩ rằng tôi có thể đi Mỹ, chứ đừng nói là được đứng đây thưa chuyện cùng quý vị.

Đất nước của những cơ hội vô giới hạn – đối với tôi trong một thời gian dài là điều không thể vói tới. Bức tường, hàng rào kẽm gai và mệnh lệnh bắn bỏ những kẻ mưu toan chạy trốn đã giới hạn tầm tay của tôi tới thế giới tự do. Vì thế tôi phải tự tạo cho mình một bức tranh về nước Mỹ qua phim ảnh và sách vở, một số những thứ này được bà con đưa lậu vào từ phương Tây. Tôi đã thấy gì và tôi đã đọc gì? Tôi thiết tha nồng nhiệt về điều gì?

Tình cảm nồng nhiệt của tôi là về Giấc mơ Mỹ quốc – mọi người đều có cơ hội để thành công, để xây dựng bằng chính nỗ lực của mình một đời sống tốt đẹp.

Tôi, cũng như những thanh thiếu niên khác, rất thích thú về một hiệu quần jeans, một hiệu quần không có ở Đông Đức mà bà dì ở Tây Đức gửi sang cho tôi.

Tôi có tình cảm cháy bỏng về phong cảnh bao la của nước Mỹ như tiếp nhận được hơi thở của tinh thần tự do và độc lập. Ngay trong năm 1990, chồng tôi và tôi đã đi du lịch lần đầu tiên đến Mỹ, đến California. Chúng tôi sẽ không bao giờ có thể quên được cảm giác khi lần đầu tiên nhìn thấy Thái Bình dương. Chỉ có thể nói là tráng lệ và huy hoàng.

Tôi đã có những tình cảm nồng nàn với những điều này và còn nhiều thứ khác nữa, mặc dầu cho đến 1989 nước Mỹ vẫn còn ở ngoài tầm tay với của tôi. Và rồi ngày 9 tháng Mười một, năm 1989, Bức tường Bá linh sụp đổ. Cái biên giới đã chia đôi một quốc gia thành hai thế giới qua bao thập niên đã mở ra.

Và đó là tại sao ngày hôm nay, đối với tôi, lần đầu tiên, là lúc để nói lời cám ơn.

Tôi cám ơn nước Mỹ và những phi công Đồng Minh đã nghe và lưu tâm đến tiếng gọi tuyệt vọng của thị trưởng Ernst Reuter của Bá linh khi ông nói “Hỡi nhân dân của thế giới, đừng quên thành phố này.”

Tháng này qua tháng khác, những phi công này đã chuyển giao thực phẩm qua đường không vận và cứu cho Bá linh không bị chết đói. Rất nhiều phi công đã liều cả sinh mạng để làm việc này. Hàng chục phi công đã hy sinh. Chúng tôi sẽ nhớ và tôn vinh họ mãi mãi.

Tôi cám ơn 16 triệu người Mỹ đã đồn trú tại Đức trong những thập niên qua. Không có sự yểm trợ của họ trong vai trò người lính, nhà ngoại giao và nói một cách tổng quát là những người điều hợp thì cũng khó vượt qua được sự chia rẽ của Âu châu. Họ là những đại sứ của Mỹ trên đất nước chúng tôi, cũng như nhiều người Mỹ gốc Đức ngày nay đang hành xử như những vị đại sứ của nước tôi tại Mỹ.

Tôi nghĩ đến John F Kennedy, người đã chiếm được tấm lòng của những người dân Bá linh tuyệt vọng trong chuyến viếng thăm năm 1963, sau khi Bức tường Bá linh được xây lên, khi ông nói với họ: “Tôi cũng là dân Bá linh” (Ich bin ein Berliner).

Ronald Reagan, sớm hơn những người khác, đã thấy và nhận ra dấu hiệu của thời đại, khi đứng trước Cổng Brandenburg năm 1987, đã đòi hỏi: “Ông Gorbachev, hãy mở cánh cổng này. Ông Gorbachev, hãy đập đổ bức tường này.” Lời kêu gọi này là điều [người dân Đức] sẽ không bao giờ quên được.

Tôi cám ơn George Herbert Walker Bush vì niềm tin của ông đối với nước Đức và đối với Thủ tướng Đức lúc đó là Helmut Kohl và đã trao cho người Đức chúng tôi một đề nghị có giá trị khôn lường vào tháng Năm, 1989: “Đối tác trong lãnh đạo.” Một đề nghị hào phóng xiết bao, 40 năm sau khi Thế chiến II chấm dứt. Ngày thứ Bảy vừa qua chúng tôi đã gặp nhau lần nữa tại Berlin, cùng với Mikhail Gorbachev. Chúng tôi cũng mang món nợ ân tình đối với ông.

Thưa quý vị, để tóm tắt trong một câu: Tôi biết, người Đức chúng tôi biết, chúng tôi đã mang nợ quý vị, những người bạn Mỹ của chúng tôi. Nước Đức và cá nhân tôi sẽ không bao giờ quên điều đó.

Trên toàn thể Âu châu, cuộc tìm kiếm tự do chung đã giải thoát một nguồn lực mạnh mẽ không thể tin được: trong công đoàn Đoàn kết Solidarno ở Ba lan, trong những nhà cải cách xung quanh Vaclav Havel[3] ở TIệp Khắc, ngay thời điểm bức màn sắt được mở ra tại Hungary và tại những cuộc biểu tình xảy ra mỗi thứ Hai tại Đông Đức.

Ở một nơi mà đã có thời chỉ là một bức tường đen tối, thình lình một cánh cửa đã mở ra và chúng tôi bước qua cánh cửa đó, đi vào đường phố, vào giáo đường, vượt qua những biên giới. Mọi người được cho một cơ hội để xây dựng một cái gì đó mới mẻ, để tao ra sự khác biệt, để dấn bước vào một sự khởi đầu mới.

Tôi cũng có một sự khởi đầu mới. Tôi bỏ công việc của một nhà vật lý học tại Học viện Khoa học Đông Bá linh lại sau lưng và đi vào con đường chính trị. Bởi vì rốt cuộc tôi có cái cơ hội để tạo ra sự khác biệt. Bởi vì tôi có một ấn tượng rằng đây là lúc có thể tạo ra sự thay đổi. Đây là lúc tôi có thể làm một điều gì đó.

Thưa quý vị, hai mươi năm đã qua kể tứ lúc chúng tôi được trao cho một món quà quá sức tưởng tượng là sự tự do. Không có điều gì có thể truyền cảm hứng cho tôi hơn, không có điều gì khiến tôi cảm thấy phấn khích hơn, không có gì khiến cho tôi tràn ngập những cảm xúc tích cực hơn là sức mạnh của tự do.

Một người mà đã kinh qua một sự ngạc nhiên tích cực như vậy trong đời, người đó tin rằng đó là điều khả thi. Hay nói như Bill Clinton tại Bá linh năm 1994: “Không có điều gì có thể làm chúng ta ngừng lại. Tất cả mọi điều đều khả thi.”

Vâng, tất cả mọi điều đều có thể xảy ra, cũng giống như sự kiện một phụ nữ như tôi có thể đứng trước quý vị hôm nay, cũng giống như một người tên Arnold Vaatz, người đã từng bị cầm tù tại Dresden vì là người bất đồng chính kiến trong chế độ Đông Đức, có thể có mặt hôm nay trong tư cách là môt đại biểu Quốc hội Bundestag của Đức trong phái đoàn của tôi.

Mọi điều đều có thể xảy ra trong thế kỷ 21, trong thời đại toàn cầu hoá. Chúng tôi ở nước Đức cũng như quý vị ở Mỹ biết rất rõ là có nhiều người e sợ sự toàn cầu hoá. Chúng ta không coi thường những sự quan tâm đó. Chúng ta nhận biết những sự khó khăn [do toàn cầu hoá mang lại]. Nhưng đó là bổn phận của chúng ta để thuyết phục những người đó rằng toàn cầu hoá là một cơ hội vĩ đại có tầm vóc toàn cầu cho mỗi một lục địa, bởi vì nó buộc chúng ta phải hợp tác với nhau. Một giải pháp khác của toàn cầu hoá là đóng cửa lại không giao tiếp với nhau nữa, nhưng đó không phải là một giải pháp hữu  hiệu. Nó chỉ đưa đến sự cô lập và kết quả là sự khốn khó. Ngược lại, suy nghĩ theo chiều hướng liên minh và đối tác sẽ đưa chúng ta tới một tương lai tốt đẹp.

Thưa quý vị. Đúng là giữa Mỹ và Âu châu đã có chung những sự bất đồng. Một bên có thể cảm thấy là bên kia quá lưỡng lự và e dè, còn một bên lại cảm thấy theo chiều ngược lại là quá hung hăng và bướng bỉnh. Tuy vậy, tôi tin tưởng sâu xa rằng không có đối tác của Âu châu tốt hơn là Mỹ và ngược lại.

Bởi vì cái điều giữ cho người Mỹ và người Âu gần với nhau không phải chỉ có chung nhau một lịch sử. Cái điều giữ cho Mỹ và Âu châu sát lại cùng nhau không phải chỉ vì có chung quyền lợi hay sự thách thức chung của sự toàn cầu hoá mà mọi vùng đất trên thế giới phải đối mặt. Điều đó tự nó không đủ để lý giải mối quan hệ đối tác đặc biệt giữa Âu châu và Mỹ và giữ cho mối quan hệ này được bền chặt. Cái điều giữ Mỹ và Âu châu lại gần với nhau hơn là sự chia sẻ những giá trị chung. Đó là [sự tin tưởng vào] những cá nhân và nhân phẩm bất khả xâm phạm của họ. Đó là sự thông hiểu chung về tự do trong trách nhiệm. Đó là điều đại diện cho chúng ta trong quan hệ đối tác độc đáo xuyên Đại tây dương và trong NATO, một cộng đồng của những giá trị chung. Đó là “chất liệu” khiến cho khẩu hiệu “Đối tác trong Lãnh đạo” có được sự sống, thưa quý vị.

Những giá trị căn bản này đã đưa đến sự chấm dứt Chiến tranh Lạnh, và cũng chính những giá trị này sẽ cho phép chúng ta chịu đựng những sự thử thách của thời gian và chúng ta phải thắng những cuộc thử thách này.

Nước Đức đã được thống nhất, Âu châu đã thống nhất. Đó là những điều chúng ta đã đạt được. Hôm nay, lúc này, thế hệ chính trị của chúng ta phải chứng minh rằng chúng ta có thể đương đầu với những thử thách của thế kỷ 21, và theo nghĩa đó, chúng ta có thể phá bỏ những bức tường [phân cách] ngày nay.

Điều đó có nghĩa là gì? Thứ nhất nó có ý nghĩa là xây dựng hoà bình và an ninh; thứ hai, đạt được sự phồn thịnh và công bằng; và thứ ba là bảo vệ trái đất của chúng ta. Về phương diện này Mỹ vào Âu châu có trách nhiệm một cách đặc biệt.

Ngay cả sau khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, chúng ta buộc phải đối mặt với nhiệm vụ phá bỏ những bức tường giữa những quan niệm khác nhau về cuộc sống, nói một cách khác, đó là những bức tường trong tâm trí đã khiến cho sự thông cảm giữa chúng ta trở nên khó khăn hết lần này đến lần khác. Đó là lý do tại sao lòng bao dung và khả năng khoan thứ trở nên quá quan trọng. Đối với chúng ta, lối sống của chúng ta là tốt đẹp nhất, nhưng đối với những người khác thì chưa hẳn như vậy. Có nhiều cách khác nhau để tạo nên sự sống chung hoà bình. Lòng bao dung có nghĩa là thể hiện sự tôn trọng với lịch sử, truyền thống, tôn giáo và căn cước văn hoá của người khác.

Nhưng xin đừng có hiểu lầm: Khoan dung không có nghĩa là “sao cũng được.” Sẽ không có sự khoan dung nào hết đối với những kẻ không tôn trọng những quyền bất khả xâm phạm của cá nhân và đối với những kẻ vi phạm nhân quyền. “Hoàn toàn không dung thứ” (zero tolerance) phải được thể hiện nếu, thí dụ như, vũ khí có khả năng huỷ diệt hàng loạt lọt vào tay của Iran và đe doạ sự an ninh của chúng ta.

Iran phải biết điều này. Iran biết đề nghị của chúng ta, nhưng Iran cũng biết lằn ranh giới hạn chúng ta đã vạch ra: Một quả bom nguyên tử trong tay một tổng thống Iran, người phủ nhận Holocaust, đe doạ Do Thái và phủ nhận quyền hiện hữu của Do Thái, là điều không thể chấp nhận được.

Đối với tôi, sự an ninh của Do Thái là điều không thể thương thuyết. Không phải chỉ có Do Thái bị đe doạ mà là cả thế giới tự do bị đe doạ. Bất kỳ ai đe doạ Do Thái cũng đe doạ luôn cả chúng ta. Đó là tại sao thế giới tự do phải đối đầu trực diện với sự đe doạ này, nếu cần với những biện pháp chế tài kinh tế mạnh mẽ. Thưa quý vị, Đức quốc, do đó sẽ yểm trợ mạnh mẽ cho tiến trình hoà bình với mục tiêu là biến giải pháp hai-nhà nước, một nhà nước  Do Thái và một nhà nước Palestine trở thành hiện thực.

Chúng tôi cũng đương đầu với sự đe doạ của khủng bố quốc tế. Chúng tôi biết rằng không một nước nào, dù có mạnh đến mấy, có thể một mình đối phó. Chúng ta cần có đối tác. Chúng ta chỉ có thể tạo nên sức mạnh nếu cùng thuộc về một cộng đồng gồm những đối tác.

Vì chúng tôi chia sẻ quan điểm của cựu tổng thống George W. Bush, sau ngày 11 tháng 9, chúng tôi đã làm mọi điều chúng tôi có thể làm để không cho Afghanistan trở thành sào huyệt đe doạ sư an ninh của chúng ta. Nước Đức, từ năm 2002 đã có mặt trên trận địa với một lực lượng đông đảo vào hàng thứ ba của liên quân. Chúng tôi muốn khái niệm an ninh kết nối được thành công. Điều đó có nghĩa là cả dân lẫn quân cùng kết nối chặt chẽ trong một mạng lưới.

Sự cam kết của cộng đồng quốc tế đối với Afghanistan quả thực là một sự khó khăn. Sự cam kết này tạo ra một sự đòi hỏi rất lớn đối với tất cả chúng ta, và phải được tiến hành sang giai đoạn kế tiếp ngay sau khi chính phủ mới của Afghanistan được thành lập. Mục tiêu của chúng ta phải là lập nên một chiến lược chuyển trách nhiệm [cai trị] sang cho Afghanistan, điều chúng ta muốn được thực hiện vào đầu năm sau tại hội nghị liên kết của Liên Hiệp Quốc. Chúng ta sẽ thành công nếu, như đã làm từ trước đến nay, chúng ta tiếp tục cùng đi chung từng bước một trên con đường của Liên Minh. Nước Đức đã sẵn sàng để gánh vác trách nhiệm này.

Chúng ta biết chắc rằng NATO đang và sẽ tiếp tục là hòn đá tảng quan trọng trong phòng thủ tập thể của chúng ta. Khái niệm An ninh đang liên tục được phát triển để thích nghi với những thách thức mới. Tuy nhiên, nền tảng của khái niệm này và hướng đi rõ ràng cho hoà bình và tự do sẽ không thay đổi.

Tôi tin tưởng chắc chắn rằng người Âu châu chúng tôi có thể đóng góp nhiều hơn cho tương lai. Vì Âu châu chúng tôi đang làm việc với nhau nhằm tạo ra cho Liên hiệp Âu châu  (European Union) một căn bản giao ước mới. Chữ ký cuối cùng vừa được thêm vào, Điều này sẽ khiến EU mạnh mẽ hơn và có nhiều khả năng hành động hơn, và như thế giúp cho EU trở thành một đối tác mạnh mẽ và đáng tin cậy của Mỹ.

Trên căn bản này chúng ta có thể xây dựng những đối tác bền vững với những nước khác, đầu tiên và trước hết là với Nga, Tàu và Ấn Độ. [Sở dĩ như vậy] là vì thế giới của chúng ta tự do hơn và liên kết với nhau nhiều hơn bao giờ. Sự sụp đổ của Bức tường bá linh, cuộc cách mạng công nghệ thông tin, sự trỗi dậy của Trung Hoa, Ấn Độ và những nước khác trở thành những nền kinh tế năng động—tất cả những điều này đã khiến cho thế giới của thế kỷ 21 trở thành một nơi khác với thế giới mà chúng ta biết ở thế kỷ 20. [Nhưng] đó là điều tốt, bởi vì tự do là phẩm chất tinh tuý của nền kinh tế và xã hội của chúng ta. Không có tự do, tâm trí con người bị kềm hãm và không thể giải phóng được nguồn lực sáng tạo.

Nhưng điều hiển nhiên là sự tự do này không đứng một mình. Đó là tự do trong trách nhiệm và tự do để thực hành trách nhiệm. Vì lý do đó, thế giới cần có trật tự. Thị trường tài chánh quốc tế gần như sụp đổ cho thấy điều gì sẽ xảy ra nếu thiếu vắng một trật tự như vậy.

Nếu có một bài học cho thế giới về sự khủng hoảng tài chánh xảy ra năm ngoái, thì bài học đó là không có một giải pháp khác để tạo nên một khuôn khổ toàn cầu cho nền kinh tế được toàn cầu hoá. [Nếu] không có những quy luật có tính cách bắt buộc toàn cầu về sự minh bạch và giám sát, thì không thể có sự tự do hơn, ngoại trừ sự rủi ro là tự do bị lạm dụng và theo sau nó là sự bất ổn. Hiểu theo nghĩa khác, đó là bức tường thứ hai cần được phá đổ: Một bức tường ngăn chặn trật tự kinh tế toàn cầu, một bức tường mang nặng tư duy khu vực và độc quyền quốc gia.

Chìa khóa hợp tác giữa các nước công nghiệp lớn và các nền kinh tế mới nổi nằm ở G20. Một lần nữa hợp tác giữa Mỹ và châu Âu là một nền tảng quan trọng. Đó là một sự hợp tác mang tính chất bao gồm chứ không phải độc quyền của một số nước.

G20 đã chứng minh là diễn đàn này có thể hành động. Chúng ta cần phải chống lại áp lực của những kẻ mà đã dẫn dắt những quốc gia trên thế giới gần tới bờ vực thẳm. Nói thẳng ra là chính sách kinh tế quốc tế phải trở nên bền vững hơn. Sự khủng hoảng này cũng là sự biểu hiện của quá nhiều suy nghĩ ngắn hạn. Hàng triệu người trên thế giới có thể mất công ăn việc làm hoặc là chịu sự nghèo khó và đói khát vì những tư duy như thế. Để đạt được sự thịnh vượng và công bằng chúng ta phải làm tất cả những gì có thể làm để ngăn không cho sự khủng hoảng như vậy xảy ra trong tương lai.

Điều này cũng có nghĩa là đừng để chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch cám dỗ. Đó là lý do tại sao những cuộc thương thảo tại hội nghị WTO tại Doha, xứ Qatar lại quá quan trọng. Sự thành công của vòng đàm phán Doha sẽ gửi một thông điệp giá trị về sự cởi mở của nền kinh tế thế giới, nhất là trong sự khủng hoảng hiện nay.

Cũng quan trọng như vậy, Hội đồng Kinh tế xuyên Đại tây dương cũng có thể hoàn thành một công việc quan trọng. Chúng ta có thể dùng nó để ngăn chặn bao cấp để cạnh tranh và tạo ra những khuyến lệ nhằm giảm những rào cản mậu dịch giữa Âu châu và Mỹ. Tôi khẩn thiết kêu gọi quý vị: Chúng ta hãy cùng hợp tác để xây dựng một trật tự kinh tế thế giới trong đó bao gồm cả quyền lợi của Mỹ và Âu châu!

Thưa quý vị,

Những thách thức toàn cầu là một sự thật và chỉ có thể được giải quyết bởi một sự hợp tác quốc tế toàn diện. Điều này được biểu hiện qua thách thức lớn thứ ba của thế kỷ 21, bởi một bức tường, ta có thể gọi nó như vậy, ngăn cách hiện tại và tương lai. Bức tường này ngăn không cho ta nhìn thấy nhu cầu của những thế hệ tương lai, nó ngăn không cho ta cấp thiết đưa ra giải pháp cần thiết để bảo vệ [trái đất] điều căn bản nhất của sự sống của ta và khí hậu.

Chúng ta đã thấy thái độ phí phạm dẫn đến tương lai như thế nào rồi: Những tảng băng ở Bắc cực đang bị tan chảy, ở Phi châu người dân trở thành kẻ tị nạn vì sự hư hoạicủa môi trường, và mực nước biển toàn cầu đang dâng lên. Tôi rất vui khi thấy quý vị cùng làm việc với tổng thống Obama, việc làm này có một ý nghĩa quan trọng cho sự bảo vệ khí hậu của chúng ta. Vì tất cả chúng ta đều biết: Chúng ta không có thì giờ để mất. Chúng ta cần một sự thoả thuận tại hội nghị khí hậu tại Copenhagen vào tháng Mười hai. Chúng ta phải cùng đồng ý trên một mục tiêu; đó là không để sức nóng toàn cầu vượt quá 2 độ Celsius.

Để đạt được điều này chúng ta cần mọi quốc gia phải sẵn sàng để nhận lấy bổn phận quốc tế. Chúng ta không thể gánh nổi sự thất bại trong những mục tiêu bảo vệ khí hậu mà các nhà khoa học đã cho biết là cực kỳ quan trọng. Sự thất bại này không phải chỉ là sự vô trách nhiệm trên quan điểm sinh thái, mà còn là sự thiển cận mang tính chất kỹ thuật, vì sự phát triển của những kỹ thuật mới trong lãnh vực năng lượng tạo ra những cơ hội trọng đại cho sự tăng trưởng và việc làm trong tương lai.

Không còn ngờ gì nữa – trong tháng Mười hai thế giới sẽ nhìn vào chúng ta, Âu châu và Hoa Kỳ. Đúng là không thể có sự thoả thuận nào mà không có Trung Hoa và Ấn Độ chấp nhận bổn phận của họ, nhưng tôi tin rằng nếu chúng ta, Mỹ và Âu châu, chứng tỏ là chúng ta sẵn sàng chấp nhận những bổn phận có tính cách ràng buộc thi hành, chúng ta có thể thuyết phục Trung Hoa và Ấn Độ tham gia. Và rồi tại Copenhagen, chúng ta sẽ có thể phá đổ bức tường ngăn cách giữa hiện tại và tương lai – vì quyền lợi của con em và cháu chắt của chúng ta và của sự phát triển bền vững của thế giới.

Tôi tin rằng, giống như chúng ta đã tìm thấy sức mạnh trong thế kỷ 20 để phá hủy một bức tường làm bằng dây thép gai và bê tông, ngày nay chúng ta có sức mạnh để vượt qua những bức tường của thế kỷ 21, những bức tường trong tâm trí chúng ta, những bức tường thiển cận của tư lợi, những bức tường ngăn cách hiện tại và tương lai.

Thưa quý vị, tôi có được sự tin tưởng này là nhờ một âm thanh đặc biệt đã truyền cho tôi cảm hứng – đó là tiếng Chuông Tự do ở toà thị sảnh Schöneberg ở Bá linh. Từ năm 1950 một bản sao của quả Chuông Tự do của Mỹ đã được treo ở đó, một món quà của dân Mỹ trao tặng, nó là biểu tượng của lời hứa tự do, một lời hứa đã được hoàn thành. Vào ngày 3 tháng Mười, 1990 tiếng Chuông Tự do đã vang lên đánh dấu sự tái thống nhất của nước Đức, một thời điểm vui mừng lớn nhất của dân Đức. Vào ngày 13 tháng Chín, hai ngày sau ngày 11 tháng 9, tiếng chuông này lại vang lên lần nữa, để đánh dấu giờ phút đen tối nhất của Mỹ.

Quả Chuông Tự do ở Bá linh, giống như quả Chuông Tự do ở Philadelphia, nhắc cho chúng ta rằng tự do không bỗng dưng mà có được. Tự do phải đấu tranh mới giành được và phải bảo vệ nó mỗi ngày trong đời sống của mình. Trong nỗ lực này, Đức và châu Âu trong tương lai cũng sẽ là những đối tác mạnh mẽ và đáng tin cậy của Mỹ. Đó là điều tôi hứa với quý vị

Xin trân trọng cám ơn

Nông Duy Trường chuyển ngữ

© Học Viện Công Dân June 2019

Nguồn: https://www.spiegel.de/international/europe/angela-merkel-s-speech-we-have-no-time-to-lose-a-659196.html

[1] Bức tường Bá linh sụp đổ ngày 9 tháng 11, 1989.

[2] Shoah là tiếng Do thái có nghĩa là thiên tai. Từ này đã được dùng để đặt tên cho cuốn phim tài liệu Shoah do đạo diễn Claude Lanzmann của Pháp thực hiện về Holocaust. Bộ phim dài 9 tiếng và mất 11 năm để hoàn thành năm 1985.

[3] Vaclav Havel, kịch tác gia và là nhà lãnh đạo đấu tranh cho dân chủ của Tiệp Khắc. Ông trở thành tổng thống của nước Tiệp Khắc dân chủ khi chế độ cộng sản sụp đổ tại Đông Âu.