fbpx

Kinh Doanh - Kinh Tế - Chính Trị

Hệ thống Ngân hàng Việt Nam: Bình mới, Rượu cũ

Chu Văn Nguyên

Theo những báo cáo rộng rãi của các phương tiện truyền thông quốc tế, các thời báo chính sách, và các tổ chức Bretton Woods, như Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và Ngân Hàng Thế Giới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được sự tiến bộ vượt bậc kể từ cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 với tầm ảnh hướng quốc tế. Điều kiện kinh tế chung đã được cải thiện và phân khu tài chính đã được chuyên sâu và đa dạng hóa trong giai đoạn này. Một dấu hiệu của sự cải thiện trong thị trường tài chính là lĩnh vực ngân hàng đã được chuyển đổi từ chế độ ngân hàng chiếm vị thế độc tôn, thiếu tính cạnh tranh và thiếu hiệu quả sang cơ cấu thị trường cạnh tranh hơn. Tổng sản lượng quốc nội lơ lửng ở mức của các quốc gia có mức thu nhập trung bình là bằng chứng của sự cải thiện trong điều kiện kinh tế rộng lớn. Vì vậy, mối quan tâm đặc biệt bây giờ là đánh giá hành vi thiết lập lãi suất của các ngân hàng thương mại Việt Nam, bắt đầu từ sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, và so sánh nó với hành vi của ngân hàng thương mại trong các nền kinh tế tiên tiến và mới nổi, bởi vì yếu tố này ảnh hưởng đến mức độ tiết kiệm, đầu tư, phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội của một quốc gia và phúc lợi công cộng.

Trong thuật ngữ của ngành ngân hàng, khoảng cách (hoặc mức chênh lệch) giữa lãi suất các ngân hàng phải trả cho người gửi tiền và lãi suất mà các ngân hàng thu phí khi cho khách hàng vay được gọi là “phí trung gian” hay “phí môi giới.”  Một ngân hàng có thể cung cấp cho các người gửi tiền lãi suất 2 phần trăm trên số tiền của họ ký thác, nhưng những người vay phải trả ngân hàng 5 phần trăm, tạo ra phí trung gian cho ngân hàng đó là 3 phần trăm. Phí trung gian này không chỉ cung cấp thu nhập về lãi suất cho ngân hàng mà nó còn ảnh hưởng đến các mức độ tiết kiệm, đầu tư, phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của quốc gia. Phí môi giới này cũng biểu hiện cách mà các ngân hàng thương mại phản ứng lại những nỗ lực của chính phủ qua chính sách tiền tệ để điều tiết những thăng trầm của chu kỳ kinh tế – gọi là chính sách tiền tệ phản chu kỳ hay chính sách tiền tệ ngược chu kỳ; và, do đó, cho thấy hiệu quả của các chính sách của ngân hàng trung ương. Kết quả là việc phân tích mức chênh lệch này làm sáng tỏ và cung cấp cái nhìn sâu sắc vào các hoạt động ngân hàng.

Dựa theo thuyết trên, những dòng sau đây sẽ nhằm thảo luận về cách hoạt động của các ngân hàng Việt Nam mà tập trung chủ yếu vào lãi suất cho vay và hành vi của mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại và lãi suất mà ngân hàng thương mại phải trả ngân hàng trung ương, khi ngân hàng thương mại thiếu số lượng dự trữ quy định và phải vay từ ngân hàng trung ương hay từ những nguồn tài chính khác; cũng như mối quan hệ năng động của các yếu tố xác định chúng. Số lượng dự trữ quy định thường do ủy ban tài chính và đầu tư của ngân hàng thương mại thẩm định và tùy theo tư duy về quản trị tài chính, nhận định về hiện trạng cũng như dự đoán tương lai về nền kinh tế của ủy ban.  Số lượng dự trữ quy định luôn bao gồm cả số lượng dự trữ bắt buộc và số lượng trội yếu mà ủy ban tài chính muốn duy trì để phòng ngừa thiếu dự trữ bắt buộc bởi ngân hàng trung ương. Dự trữ bắt buộc là tích số của ngân khoản mà khách hàng ký thác và tỉ số dự trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương quy định. Lãi suất mà ngân hàng thương mại phải trả trong các tài nghiệp với ngân hàng trung ương được gọi là tỉ lệ chiết khấu hay lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ương và là một công cụ mà ngân hàng trung ương sử dụng để thực thi chính sách tiền tệ phản chu kỳ. Do đó, hành vi của mức chênh lệch trên là một biến số phản ảnh khá trung thực hành vi về cách mà các ngân hàng Việt phản ứng lại chính sách tiền tệ phản chu kỳ của ngân hàng trung ương và sự hữu hiệu của chính sách tiền tệ phản chu kỳ của cơ sở tài chính quyền lực này.

Với quý vị không quen thuộc với công cụ mà ngân hàng trung ương sử dụng để thực thi chính sách tiền tệ phản chu kỳ, xin ghi nhận rằng ngân hàng trung ương như Cục Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ đã tình cờ phát hiện rằng tỉ lệ chiết khấu, tỉ số dự trữ bắt buộc (phần trăm của tài khoản do khách hàng ký thác mà ngân hàng thương mại phải giữ làm dự trữ theo quy định của ngân hàng trung ương), tài vụ mua/bán công khố phiếu (và gần đây bao gồm cả mua/bán các trái phiếu được bảo đảm bởi các chứng từ nợ mua nhà), và bắt đầu từ tháng 10 năm 2008, lãi suất trả trên tài khoản mà ngân hàng thương mại ký thác tại ngân hàng trung ương là bốn công cụ có thể sử dụng để thực thi chính sách tiền tệ phản chu kỳ. Một điểm quan trọng nữa là khi thực thi chính sách tiền tệ phản chu kỳ, ngân hàng trung ương đồng bộ sử dụng cả bốn công cụ này. Sau cùng, tùy theo chủ đích của chính sách tiền tệ, Cục Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ có thể sử dụng bốn công cụ này để tăng hay giảm lãi suất thị trường.

Trên thế giới, các sự bãi bỏ quy định và sự mở rộng tự do khác nhau của ngành ngân hàng, nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung, tại nhiều quốc gia trong những thập niên 1980 và 1990 là hệ quả của “mô hình tự do mới,” một cái gọi là “con đường thứ ba” là trung gian giữa triết lý kinh tế cực đoan hơn của: (i) chủ nghĩa tự do cổ điển, khái niệm tích lũy cho rằng các quyết định kinh tế tốt nhất là quyết định cá nhân của đại chúng; và (ii) trung ương quy hoạch quan điểm cho rằng các quyết định kinh tế tốt nhất là sự quy nạp của nhiều thông tin và quan điểm tập thể. Những hành động tự do mới là đầu mối cho những cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới trong những năm 1988 -1989 và 2008. Các chính sách kinh tế kế hoạch tập trung đã chịu trách nhiệm cho sự lạc hậu và sụp đổ tiếp theo của các nền kinh tế của Liên-Xô và Đông Âu.

Tuy nhiên, hệ tư tưởng tự do mới hay con đường thứ ba được coi là thời thuợng và được cổ vũ và rao giảng bởi các tổ chức tài chính quốc tế khi Việt Nam bắt đầu chuyển đổi từ kế hoạch tập trung sang nền kinh tế theo định hướng thị trường. Do đó, mô hình tự do mới là lý thuyết cơ bản cho sự buông lỏng tự do những hạn chế trước đây trong thị trường tài chính Việt Nam.

Ngược dòng lịch sử, cơ cấu ngân hàng Việt Nam hiện nay đã được khởi xướng bởi các cải cách trong ngành ngân hàng vào các năm 1988 và 1989, khi hệ thống ngân hàng đơn thể (mono-bank system) nhằm phục vụ các nhu cầu của nền kinh tế kế hoạch tập trung đã được tách ra thành một hệ thống ngân hàng hai cấp. Hệ thống này bao gồm Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam là ngân hàng trung ương và bốn ngân hàng thương mại nhà nước. Quốc Hội Việt Nam thông qua vào tháng 12 năm 1997 hai dự luật mới liên quan đến hoạt động của ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại, có hiệu lực vào tháng 10 năm 1998. Vào năm 1990, các quy tắc về chuyên ngành của các ngân hàng được bãi bỏ và các ngân hàng Việt Nam được “tự do hóa” trên nguyên tắc.

Sự tự do hóa này đã kết tủa hình thành của các ngân hàng liên cổ phần và các ngân hàng liên doanh bắt đầu vào đầu năm 1991 cho đến 1993. Các cổ đông của các ngân hàng liên cổ phần là các ngân hàng thương mại nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, và các tổ chức tư nhân. Ngân hàng liên doanh là quan hệ đối tác giữa các ngân hàng thương mại quốc doanh và ngân hàng nước ngoài thuộc đối tượng chịu sự hạn chế tương tự về nhận tiền ký thác như các ngân hàng nước ngoài. Hoạt động của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác được giám sát bởi Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam. Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam ban hành quy định nhằm bảo đảm an toàn và hiệu quả qua quá trình kiểm soát ngoại khu và nội khu các tác nghiệp tài chính ngân hàng, giới hạn để bảo đảm an toàn trong nghiệp vụ cho vay, và quy định các yêu cầu về vốn tối thiểu cũng như tỉ số dự trữ bắt buộc.

Hơn nữa, trong hai thập niên qua, chính phủ Việt Nam đã tiến hành một loạt các cải cách để tăng cường khả năng hoạt động và hiện đại hóa ngành ngân hàng như là một động thái của Việt Nam để hướng tới một nền kinh tế theo định hướng cởi mở hơn và thị trường hoá hơn. Hầu hết những cải cách này là do bó buộc bởi các cam kết trong các hiệp định quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và những nỗ lực liên tục để áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế như các khuôn khổ vốn Basel vào hoạt động ngân hàng. Các mục tiêu của cải cách bao gồm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, mở cửa dần dần nền kinh tế cho đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tư nhân hóa một phần của các ngân hàng nhà nước, và các biện pháp để tăng cường vốn của các ngân hàng Việt Nam.

Cũng có thể lập luận rằng kể từ khi khởi đầu của thiên niên kỷ mới, chương trình “đổi mới 2” đã “thả lỏng” các khu vực tư nhân trong nước và giải quyết sự phân biệt vốn có trong các chế độ thương mại và đầu tư. Quá trình này bắt đầu với dự Luật Doanh Nghiệp trong năm 2000, Luật Doanh Nghiệp Thống Nhất trong năm 2005, Hiệp Định Thương Mại Song Phương Việt-Mỹ trong năm 2006, và lên đến đỉnh điểm khi Việt Nam gia nhập WTO trong năm 2007. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu trở thành một nền kinh tế công nghiệp hiện đại vào năm 2020 như Việt Nam đề xuất, nền kinh tế Việt Nam cần phải có nền tảng tổ chức công, có đẳng cấp thế giới, để bổ sung cho những khu vực kinh doanh tư nhân đang ngày một linh hoạt hơn. Vấn đề quan trọng và khó khăn nhất là hiệu quả hoạch định chính sách và quy chế khéo léo phải được cân bằng với lợi nhuận với mức độ rủi ro liên hệ, trong một cơ cấu công quyền với sự cam kết cho một nhà nước độc đảng mà sự ổn định xã hội và chính trị vẫn còn ngự trị tối cao.

Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay bao gồm bốn loại tổ chức chính: (i) sáu ngân hàng thương mại nhà nước, (ii), ba mươi lăm ngân hàng thương mại liên cổ phần, (iii) bốn ngân hàng liên doanh, và (iv) bốn mươi tám chi nhánh ngân hàng thuộc sở hữu toàn bộ của nước ngoài. Các ngân hàng nước ngoài gia nhập vào thị trường Việt Nam ban đầu bị giới hạn bằng việc chỉ được tham gia một phần nhỏ trong ngân hàng liên doanh, thành lập chi nhánh và văn phòng đại diện cho đến năm 2004, khi chính phủ sửa đổi Luật năm 1998 về tổ chức tín dụng hầu tuân thủ các điều khoản của Hiệp Định Thương Mại Song Phương Việt-Mỹ. Tu chính này nhằm để Việt Nam cho phép các chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ tại Việt Nam được quyền sở hữu 100 phần trăm tài sản của chúng vào năm 2010. Việc sửa đổi luật pháp này đã đặt nền móng cho việc thành lập các ngân hàng thuộc toàn quyền sở hữu của các nhà đầu tư ngoại quốc từ bất kỳ nước nào. Đây là đòi hỏi cuối cùng trong các cuộc thương lượng để Việt Nam được gia nhập vào WTO trong năm 2007.

Liên quan đến sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, kể từ năm 2006, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đã cấp giấy phép cho bốn mươi tám ngân hàng nước ngoài hoạt động như hoàn toàn ngân hàng nước ngoài. Trong những năm hạn chế hoạt động của mình, các ngân hàng hoàn toàn vốn nước ngoài đã thu được lợi nhuận cao, một phần là do nhu cầu cao của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để mở tài khoản tại các ngân hàng nước ngoài và sử dụng các dịch vụ tài trợ thương mại và ngoại hối của họ. Các ngân hàng này nay cũng đã lăm le đến các tầng lớp trung lưu đang phát triển ở Việt Nam như khách hàng tiềm năng cho các dịch vụ mà các ngân hàng nước ngoài được coi là có lợi thế cạnh tranh so với các ngân hàng trong nước, chẳng hạn như các dịch vụ ngân hàng bán lẻ và quản lý tài sản.

Song song với sự mở cửa thị trường ngân hàng quốc nội cho các đối tác nước ngoài, chính phủ đã cố gắng tăng cường khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trong nước. Về vấn đề này, chính phủ Việt Nam công bố vào tháng 5 năm 2006 kế hoạch để “cổ phần hóa,” hay tư hữu hóa một phần các ngân hàng thương mại nhà nước hầu giảm bớt quyền sở hữu của chính phủ xuống đến 51 phần trăm vào năm 2010. Ngoài ra, để giúp cho tiến trình này, trong năm 2007 Việt Nam đã nâng tối đa cổ phần mà một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài có thể giữ trong một ngân hàng thương mại trong nước, bao gồm các ngân hàng thương mại nhà nước, từ 10 phần trăm đến 15 phần trăm vốn điều lệ của ngân hàng.

Dù mục đích của Việt Nam là hoàn tất cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước vào năm 2010, tính đến tháng 4 năm 2011 chỉ có hai ngân hàng: Vietcombank và Vietinbank đã bán thành công cổ phần cho các nhà đầu tư tư nhân. Vietcombank trở thành ngân hàng thương mại nhà nước đầu tiên phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng, bán cổ phần 6,5 phần trăm cho 10,5 nghìn tỷ đồng (652 triệu Mỹ kim) vào tháng 12 năm 2007. Tuy nhiên, điều đó vẫn chưa đủ để thu hút một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài nào sẵn sàng để có số lượng 15 phần trăm cổ phần, một yêu cầu của kế hoạch cổ phần hóa của ngân hàng. Bởi vì ngân hàng không thỏa mãn kế hoạch cổ phần hóa này, trong tháng 12 năm 2009, chính phủ dừng kế hoạch của Vietcombank là tăng thêm 1 nghìn tỷ đồng (48 triệu Mỹ kim) thông qua việc bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu.

Trong tương lai gần, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức lớn khi tiếp tục các biện pháp cải cách và phát triển ngành ngân hàng. Tính đến tháng 12 năm 2011, thời hạn để thỏa mãn các yêu cầu vốn tối thiểu mới, cạnh tranh về vốn giữa các ngân hàng tăng lên. Nỗ lực huy động vốn để thỏa mãn các mức vốn tối thiểu đã gặp nhiều khó khăn hơn bởi sự sụt giảm trong giá trị cổ phiếu. Giá cổ phiếu thấp hơn cũng tạo ra khó khăn cho Việt Nam trong việc tiếp tục tìm kiếm cổ đông chiến lược để cung cấp đầu tư và chuyên môn cho các ngân hàng thương mại nhà nước mới được cổ phần hóa. Hơn nữa, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đã công bố hạn chế mới về đầu tư nước ngoài trong các ngân hàng thương mại nhà nước, đòi hỏi phải có ít nhất 20 tỷ Mỹ kim tài sản cho các nhà đầu tư muốn đầu tư vào hơn 15 phần trăm. Những hạn chế này có thể hạn chế số lượng các nhà đầu tư tiềm năng và làm chậm quá trình cổ phần hóa hơn nữa.

Do việc chính sách ngân hàng trung ương thao tác các nguồn của dự trữ bắt buộc và trội yếu của ngân hàng thương mại để thực hiện chính sách tiền tệ phản chu kỳ của mình, chúng ta có thể quan sát hành vi thiết lập lãi suất của các ngân hàng Việt Nam để lượng giá sự hữu hiệu của chính sách tiền tệ phản chu kỳ của ngân hàng trung ương và những tác động đối với người đi vay tại Việt Nam. Chúng ta có thể làm điều này bằng cách nhìn vào hành vi của mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại và tỉ lệ chiết khấu của ngân hàng trung ương để hiểu được các động thái gây ra khoảng cách mở rộng và thu hẹp của sự chênh lệch này do sự thay đổi trong nền kinh tế và chính sách tiền tệ phản chu kỳ.

Lý thuyết kinh tế (và kinh nghiệm ngân hàng) cho rằng trong bất kỳ lãnh vực thương mại nào của một nền kinh tế mà trong đó chỉ có một công ty độc quyền hay chỉ một số nhỏ công ty chia nhau thị phần của lãnh vực đó như các bạn có thể thấy trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam, sẽ chắc chắn dẫn đến hành vi định giá cắt cổ. Hành vi định giá cắt cổ được thể hiện bởi sự không đồng bộ của độ chênh lệch giữa lãi suất cho vay của ngân hàng và chi phí của ngân hàng về quỹ đó với cái thực tại của nền kinh tế. Ví dụ, nếu ngân hàng trung ương giảm tỷ lệ chiết khấu dẫn đến một cái thực tại mới của nền kinh tế cho phép các ngân hàng thương mại có thể góp vốn, chủ yếu là qua các hình thức tiền ký thác từ người gửi tiền với lãi suất thấp hơn, lãi suất mới mà ngừơi vay phải trả cho ngân hàng cũng nên thấp hơn. Mặt khác, nếu ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay mới của ngân hàng thương mại phải tăng. Nếu ngân hàng thương mại điều chỉnh lãi suất cho vay với tốc độ khác khi ngân hàng trung ương tăng tỉ lệ chiết khấu hơn là khi ngân hàng trung ương giảm tỉ lệ chiết khấu, đưa đến biến đổi phí môi giới của ngân hàng thương mại, thì quá trình điều chỉnh như thế được gọi là “không đối xứng(asymmetric).” Hơn nữa, nếu ngân hàng thương mại điều chỉnh lãi suất cho vay của họ với tốc độ nhanh hơn khi ngân hàng trung ương tăng tỉ lệ chiết khấu hơn là khi ngân hàng trung ương giảm tỷ lệ chiết khấu của mình thì quá trình điều chỉnh như thế được cho là thể hiện hành vi định giá cắt cổ. Mọi hành vi định gía khác của các ngân hàng thương mại được cho là thể hiện hành vi cạnh tranh giá cả.

Về mặt lý thuyết, các ngân hàng hoạt động trong một nền kinh tế thị trường tự do có thể được dự kiến sẽ xem xét tất cả các nguồn rủi ro trong việc xác định và thiết lập mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay của chúng và tỉ lệ chiết khấu của ngân hàng trung ương. Nếu các ngân hàng thương mại thiết lập mức chênh lệch này quá cao hoặc quá thấp, áp lực thị trường sẽ đưa đến sự điều chỉnh đưa mức chênh lệch này quay trở lại trạng thái cân bằng. Ba giả thuyết chính giải thích sự thiết lập mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại và tỉ lệ chiết khấu của ngân hàng trung ương là: (i) giả thuyết dựa trên sự tập trung của ngân hàng, (ii) giả thuyết dựa trên đặc tính của khách hàng, và (iii) giả thuyết dựa trên sự phản ứng của khách hàng.

Giả thuyết dựa trên sự tập trung ngân hàng lập luận rằng các ngân hàng độc quyền sẽ nhanh chóng tăng lãi suất cho vay khi ngân hàng trung ương tăng tỉ lệ chiết khấu, nhưng chậm giảm lãi suất cho vay khi ngân hàng trung ương giảm tỉ lệ chiết khấu.  Giả thuyết dựa trên đặc tính của khách hàng cho rằng các ngân hàng có thể điều chỉnh lãi suất cho vay để mở rộng mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại và tỉ lệ chiết khấu của ngân hàng trung ương hầu tăng biên độ lợi nhuận của họ khi ngân hàng trung ương thay đổi tỉ lệ chiết khấu,  nếu kiến thức về tài chính và ngân hàng của khách hàng hạn hẹp, hoặc phãi gánh chi phí cao của việc tìm kiếm và chuyển đổi ngân hàng. Giả thuyết dựa trên sự phản ứng của khách hàng cho rằng việc điều chỉnh lãi suất cho vay không đối xứng trong thực tế có thể mang lại lợi ích cho khách hàng, bởi vì sự hiện diện của thông tin bất đối xứng có thể nuôi dưỡng một vấn đề bất lợi khi ngân hàng tăng lãi suất, vì lãi suất cao hơn sẽ có xu hướng thu hút người vay với độ rủi ro cao hơn. Vì vậy, ngay cả khi lãi suất thị trường tăng, các ngân hàng sẽ miễn cưỡng hay do dự thế nên chúng tăng lãi suất cho vay chậm hơn là mức tăng của lải suất thị trường hay tỉ lệ chiết khấu của ngân hàng trung ương, vì thất thu dự kiến cho các ngân hàng không nâng hay tăng lãi suất cho vay hay tăng chậm sẽ được bù đắp bởi những lợi ích giảm nguy cơ khuyến khích những người đi vay với rủi ro cao.

Ứng dụng các lý thuyết kinh tế nói trên, người viết đã dùng phương pháp thống kê hiện đại để phân tích thực nghiệm về cách mà các ngân hàng Việt Nam phản ứng lại chính sách tiền tệ ngược chu kỳ của ngân hàng trung ương, phản ảnh qua những thay đổi tỉ lệ chiết khấu của ngân hàng trung ương, trong việc thiết lập lãi suất cho vay của các ngân hàng Việt Nam. Quá trình nghiên cứu này sử dụng dữ liệu hàng tháng của Việt Nam từ tháng 1 năm 1997 đến tháng 6 năm 2014, do Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế lưu trữ.

Về mối quan hệ dài hạn, kết quả phân tích cho thấy rằng lãi suất cho vay của ngân hàng Việt Nam và tỉ lệ chiết khấu của ngân hàng trung ương biến thiên theo tỷ lệ thuận và trực tiếp; nghĩa là, nếu  một lãi suất đi lên hoặc xuống thì lãi suất kia sẽ biến chuyển cùng chiều. Mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại và tỉ lệ chiết khấu  của ngân hàng trung ương ổn định từ năm 1997 đến năm 2007, và sau đó mức chênh lệch này dao động khá rộng rãi theo xu hướng giảm khá dốc trong những tháng còn lại của giai đoạn quan sát. Sự thay đổi trong cấu trúc này là có thể do tác động của các nỗ lực của Việt Nam để tư nhân hóa các ngân hàng thương mại lớn của nhà nước trong năm 2007.

Kết quả nghiên cứu trên cũng cho thấy rằng lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn khi tỉ lệ chiết khấu của ngân hàng trung ương tăng và giảm nhanh hơn khi tỉ lệ chiết khấu của ngân hàng trung ương suy giảm, trong dài hạn. Điều này có nghĩa rằng khi  biên độ lợi nhuận của ngân hàng thương mại Việt Nam bị đe dọa bởi lãi suất huy động tăng cao, các ngân hàng thương mại này không phản ứng một cách nhanh chóng để tăng lãi suất cho vay hầu bảo vệ thu nhập của họ. Hiện tượng này khác hẵn với các hành vi của các ngân hàng thương mại ở các nền kinh tế tiên tiến và mới nổi. Hiện tượng này cũng có nghĩa là khi biên độ lợi nhuận của các ngân hàng được cải thiện khi tỉ lệ chiết khấu của ngân hàng trung ương giảm, ngân hàng thương mại Việt Nam giảm lãi suất cho vay của họ nhanh chóng, và do đó biên độ lợi nhuận của họ sẽ nhanh chóng trở lại với mức quân bình thị trường. Tóm lại, ngay cả đang họat động trong điều kiện được đánh giá là có mức độ tập trung cao của ngành ngân hàng Việt Nam, các kết quả thực nghiệm bằng phương pháp thống kê tiên tiến trên cho thấy các tổ chức cho vay Việt thể hiện hành vi cạnh tranh giá cả, trên phương diện thống kê. Mặc dù kết quả thực nghiệm này phù hợp với giả thuyết dựa trên sự phản ứng của khách hàng nói trên, nó mâu thuẫn với tất cả các kết quả báo cáo trong các tài liệu về hành vi thiết lập biên độ lợi nhuận của tất cả các ngân hàng thương mại trong mọi nền kinh tế mới nổi và tiên tiến trên thế giới.

Về mối quan hệ năng động ngắn hạn giữa lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam và tỉ lệ chiết khấu của ngân hàng trung ương, kết quả nghiên cứu cho thấy quan hệ tương quan nhân quả ngắn hạn rất mạnh mẽ giữa hai lãi suất này, và theo theo thuật ngữ thống kê, hiện tượng này được gọi là quan hệ tương ứng hay hai chiều Granger. Điều này rất là quan trọng vì nó cho thấy rằng các ngân hàng Việt đáp ứng lại chính sách tiền tệ phản chu kỳ của ngân hàng trung ương bằng cách thay đổi lãi suất cho vay và điều này chính là những gì chính sách tiền tệ phản chu kỳ của ngân hàng trung ương hy vọng được thành tựu. Những hiện tượng vừa nêu đương nhiên sẽ không mấy ngạc nhiên vì thực tại của nền kinh tế Việt Nam và áp lực quốc tế dẫn đến sự phô trương của những hô hào hoa mỹ và hùng hồn bề ngoài về cải cách đã được thiết kế để tăng tính cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng. Việt Nam hy vọng mọi người tin rằng qua các cải cách ngoài mặt đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ trở thành một trong các hệ thống ngân hàng tại các cường quốc. Thật ra, những cải cách bề ngoài nói trên chỉ thay đổi ngoại hình, hiểm nguy vẫn còn nằm ở các chi tiết hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Từ một góc nhìn khác, sự khác biệt biên độ từ đỉnh đến đáy của chu kỳ của mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại và tỉ lệ chiết khấu của ngân hàng trung ương đưa ra một câu hỏi quan trọng là liệu những biến độngtrong sự chênh lệch và phương sai từ một tháng nào đó có ảnh hưởng đến độ chênh lệch và phương sai trong các tháng tương lai không. Thông tin này là rất quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách tiền tệ phản chu kỳ vì nó giúp giải quyết nghi vấn là liệu ngân hàng trung ương có nên can thiệp để đưa nền kinh tế về xu hướng hay quỷ đạo dài hạn của nó ít thường xuyên và bằng các biện pháp chính sách mạnh hơn, hoặc thường xuyên hơn và bằng các biện pháp chính sách nhẹ hơn bởi vì hai hành động chính sách phản chu kỳ này sẽ dẫn đến kết quả những phương sai khác nhau. Kết quả thực nghiệm trên cho thấy rằng những biến động trong sự chênh lệch và phương sai trong quá khứ làm cho lãi suất cho vay cao hơn trong những tháng tiếp theo.

Nếu dựa trên lý thuyết kinh tế hiện đại, được triển khai trong các nước phát triển, phát hiện của quá trình nghiên cứu trên về các tương quan của phương sai trong quá khứ và hiện tại giá tín, cùng với các báo cáo vi giá cả cạnh tranh của các ngân hàng thương mại đưa đến đề nghị rằng những nhà hoạch định chính sách tiền tệ Việt Nam nên can thiệp để đưa nền kinh tế về xu hướng dài hạn thường xuyên hơn và bằng các biện pháp chính sách nhẹ hơn. Chế độ chính sách được đề xuất này sẽ không làm trầm trọng thêm độ khác biệt giữa đỉnh và đáy của chu kỳ của mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại và tỉ lệ chiết khấu của ngân hàng trung ương. Đồng thời, sự cạnh tranh lãi suất cho vay thiết lập bởi các ngân hàng thương mại sẽ có lợi cho người vay tiền và do đó có lợi cho sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Theo lý thuyết kinh tế hiện đại, được xây dựng trong các nước phát triển, thì những phát hiện vừa trình bày phải là  những thành công vượt bậc. Đây là một trong những nguyên nhân cho sự lạc quan và các báo cáo tốt đẹp nói trên về những thành tựu đáng kể của nền kinh tế Việt Nam từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, phát xuất từ Châu Á. Điển hình là lời tuyên bố của tổng giám đốc Ngân Hàng Thế Giới, ông Robert Zoellick, khi ông ghé thăm Việt Nam nhân chuyến công du Á-Châu vào năm 2007 rằng “Việt Nam có tiềm năng là một trong những quốc gia thành công nhất trong lãnh vực phát triển kinh tế.”

Thật không may, ngoài việc là không phù hợp với hành vi định giá của các ngân hàng trong nền kinh tế mới nổi và tiên tiến, các phát hiện về hành vi thiết lập lãi suất cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam không thể dung hòa với sự thiếu tự do kinh tế và tham nhũng tràn lan trong nền kinh tế quốc gia. Theo the Heritage Foundation, chỉ số nhận thức tham nhũng năm 2013, đo lường mức độ nhận thức về tham nhũng trong khu vực công, xếp Việt Nam thứ 116 trong tổng số 177 quốc gia và vùng lãnh thổ. Về mức độ tự do kinh tế, Việt Nam được xếp hạng thứ 147 trong số 186 quốc gia và vùng lãnh thổ và 33 trong số 42 nước trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, nơi mà mật độ của các chính thể độc tài cao nhất trên thế giới, trong năm 2014. Trong các bảng xếp hạng này, cấp bậc càng thấp thì quốc gia càng ít tham nhũng hoặc ít độc quyền. Vì vậy, phát hiện từ nghiên cứu thực nghiệm trên cho thấy nhiều tình trạng bất ổn mới cho quan chức Việt Nam.

Trầm trọng hơn nữa là các báo cáo kết quả thực nghiệm trên mâu thuẫn đối với những báo cáo được tìm thấy bởi các nghiên cứu của các nền kinh tế tiên tiến và mới nổi. Nếu ai đó diễn giải các kết quả thực nghiệm của nền kinh tế chuyển đổi Việt Nam dựa trên nền tảng lý thuyết kinh tế cơ bản, được triển khai trong các nền kinh tế ở văn hóa phương Tây, thì sự diễn giải có thể gây nhầm lẫn. Cần chú ý rằng trong nền kinh tế thị trường phát triển, các khoản vay ban đầu sẽ cung cấp một số khoản thu nhập lệ phí bên cạnh thu nhập lãi suất cho các tổ chức cho vay. Tuy nhiên, trong một môi trường đầy tham nhũng và tham nhũng có hệ thống, các quan chức quản lý ngân hàng có thể áp đặt một “lợi ích khác” hay “số tiền hối lộ” hoặc “tiền lót tay” cho riêng họ khi hồ sơ vay mượn được tạo ra. Đương nhiên, để “biện minh” cho tiền hối lộ của họ, quản lý của các ngân hàng phải cung cấp một số “ưu ái ngầm hiểu” ngược lại cho người vay. Các ưu ái ngầm hiểu cho các số tiền hối lộ có thể là lãi suất cho vay được điều chỉnh giảm nhanh hơn khi ngân hàng trung ương giảm tỉ lệ chiết khấu, hay có thể là lãi suất cho vay được điều chỉnh tăng chậm hơn khi ngân hàng trung ương tăng tỉ lệ chiết khấu.

Giải thích kết quả thực nghiệm như trên hoàn toàn phù hợp với lý thuyết kinh tế vi mô. Để nắm bắt lập luận này, xin ghi nhận rằng: (i) giả thuyết dựa trên sự phản ứng của khách hàng được hình thành trong môi trường kinh tế với lãi suất cho vay cao; (ii) lãi suất mà người đi vay phải trả thật ra là giá để dùng số tiền vay; và (iii) lý thuyết kinh tế vi mô chứng minh rằng mức độ đàn hồi của khúc tuyến cầu của bất cứ sản phẩm nào cũng cao ở mức giá cả tương đối cao. Gía càng cao, độ đàn hồi càng lớn. Trong thuật ngữ của kinh tế vi mô, độ đàn hồi cầu được định nghĩa là số bách phân của thay đổi trong số lượng cầu (đo bằng số đơn vị của sản phẩm) khi gía của sản phẩm đó tăng 1 phần trăm.  Theo tiêu chuẩn quốc tế cũng như so sánh với các lân bang Á Châu, lãi suất cho vay tại Việt Nam tương đối rất cao; thế nên, khi lãi suất cho vay chỉ thay đổi 1 phần trăm [chẳng hạn như tăng từ 5,00 phần trăm đến 5,05 phần trăm: 100x(5,05-5,00)/5,00 = 1 phần trăm], số lượng hồ sơ vay mượn trong thị trường này sẽ giảm nhiều phần trăm. Hơn nữa, tư liệu cho thấy rằng tiền hối lộ tại Việt Nam thường được quy định bằng phần trăm của số tiền vay. Do đó, càng nhiều hồ sơ vay mượn được thành lập, số ngân khoản các quan chức quản lý ngân hàng sẽ hưởng hay trích ghép bất chính càng cao. Thế nên, khi ngân hàng trung ương tăng tỉ lệ chiết khấu, các quan chức ngân hàng thương mại có thể sẽ không tăng lãi suất cho vay nhanh chóng hầu tối thiểu hoá mức giảm sút về số lượng hồ sơ vay mượn đồng thời cung cấp cho khách hàng các ưu ái ngầm hiểu nêu trên.  Ngược lại, khi ngân hàng trung ương giảm tỉ lệ chiết khấu, các quan chức ngân hàng thương mại có thể sẽ giảm lãi suất cho vay nhanh chóng hầu tối đa hoá mức tăng về số lượng hồ sơ vay mượn đồng thời cung cấp cho khách hàng các ưu ái ngầm hiểu để biện minh cho, và tối đa hoá, số tiền lót tay mà họ trích ghép.

Giải thích thay thế trên là phù hợp với kết quả thực nghiệm của việc điều chỉnh bất đối xứng và dường như bảo vệ khách hàng ngoài mặt của của các ngân hàng Việt Nam, cũng như nhân quả Granger-hai chiều. Thực chất, thì hiện tượng này phản ảnh hành vi tối đa hoá số tiền hối lộ mà các quan chức quản lý ngân hàng thương mại Việt Nam trích ghép bất chính, hay mượn hoa dâng Chúa, nếu muốn diễn tả bằng một cụm từ hoa mỹ hơn.

Kết luận và suy tư: trong lịch sử, nền kinh tế Việt Nam đã theo đuổi chiến lược phát triển nhà nước lãnh đạo dựa trên ý thức hệ cộng sản. Chiến lược phát triển này dẫn đến một lĩnh vực tài chính ngân hàng thống trị do đó hệ quả là thiếu cạnh tranh và không hiệu quả cho đến hậu bán thập niên 1980. Cải cách kinh tế tiếp theo dẫn đến tự do hóa kinh tế và tài chính ngoài mặt, bao gồm các bãi bỏ quy định ngân hàng và sự mở rộng tự do tài khoản vốn của Việt Nam.

Hầu hết các cải cách nói trên đã do thúc đẩy bởi sự tham gia ngày càng tăng của Việt Nam vào các hiệp ước quốc tế. Những mục tiêu của các cải cách này là tái cơ cấu  hệ thống ngân hàng để dần dần mở nền kinh tế cho đầu tư nước ngoài, tư hữu hóa một phần các tổ chức ngân hàng nhà nước, và tăng cường vốn của các ngân hàng Việt Nam.

Tính đến ngày hôm nay, từ văn hóa phương Tây và các lý thuyết kinh tế triển khai trong các nền kinh tế thị trường phát triển, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có tiến triển ngoài mong đợi trong đó các tổ chức thành viên của nó thể hiện hành vi thiết lập lãi suất cạnh tranh trong khi đối tác của họ ở các nền kinh tế mới nổi và tiên tiến đi theo chương trình định giá cắt cổ. Hiện tượng này, cùng với thống kê tăng trưởng kinh tế nói trên là cơ sở cho những nhận xét lạc quan và tốt đẹp về hoạt động kinh tế của Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ 21.

Tuy nhiên, phân tích ngành ngân hàng Việt Nam, nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung, cho thấy rằng đất nước này sẽ phải đối mặt với một số thách thức trong nỗ lực phát triển kinh tế và tiếp tục cải cách và phát triển các lĩnh vực ngân hàng phía trước. Nỗ lực huy động vốn sẽ bị khó khăn hơn bởi sự sụt giảm trong giá trị cổ phiếu. Giá cổ phiếu thấp hơn cũng tạo ra khó khăn cho chính phủ trong việc tiếp tục tìm kiếm các cổ đông chiến lược để cung cấp đầu tư và chuyên môn cho các ngân hàng thương mại nhà nước mới được cổ phần hóa. Một khó khăn không kém nữa là hỗ trợ tài chính quốc tế dưới mọi hình thức sẽ bị giảm đáng kể trong khi nghĩa vụ quốc tế trong lĩnh vực này sẽ tương đối gia tăng khi Việt Nam đạt được vị thế của một quốc gia có mức thu nhập trung bình.

Điều bất ổn trầm trọng hơn nữa là dựa theo những đặc điểm riêng biệt của nền kinh tế Việt Nam, những kết quả thực nghiệm phát hiện trên có thể được diễn giải một cách khác là cái quái thai kết tựu từ hành vi tham nhũng như tối đa hóa các khoản tiền lót tay của các quan chức quản lý ngân hàng trong một môi trường tham nhũng có hệ thống và không trong sáng. Hành vi tối đa hóa tiền hối lộ này khởi sắc trong môi trường không minh bạch và tham nhũng là cơ chế mà qua đó các quan chức quản lý ngân hàng trích ghép tài sản bất chính của họ làm tai hại hiệu quả kinh tế của quốc gia, ít nhất là không sử dụng hay phân phối tư bản đầu tư hữu hiệu. Ngoài ra, các hành vi tham nhũng như tối đa hóa tiền hối lộ kết hợp với cam kết một nhà nước độc đảng, nơi mà kiểm soát kinh tế và chính trị được trao cho một nhóm nhỏ các cá nhân. Những yếu tố này đưa đến sự phân bố không đồng đều của tổng sản luọng quốc nội, trong đó chỉ có một số nhỏ cá nhân có liên hệ mật thiết với các quan chức của đảng sẽ trở nên giàu có trong khi phần lớn dân số sống trong nghèo đói và một số nợ khó đòi khổng lồ trong hệ thống ngân hàng quốc doanh. Hơn nữa, hầu hết các khoản nợ khó đòi đều do các doanh nghiệp nhà nước vay mượn và không ai có thể ước tính được chính xác kích cỡ của các khoản nợ khó đòi này. Số nợ khó đòi khổng lồ trong hệ thống ngân hàng quốc doanh sẽ là gánh nặng cho ngân sách quốc gia và gây thêm nhiều nỗi lầm than cho đồng bào nghèo trong nước.

Thương tâm hơn nữa cho những mảnh đời bất hạnh trong nước là bằng chứng toàn cầu cho thấy khi các quan chức thu góp tài sản như trên họ sẽ chi tiêu một cách phóng khoáng dẫn đến gia tăng giá cả trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế mà lợi tức phân phối không đồng đều, lạm phát sẽ gây nhiều nghiệt ngã hơn cho đại đa số quần chúng vì hầu hết quần chúng là người nghèo. Hơn nữa, những quan chức thu góp tài sản như trên thường chuyển tài sản của họ ra ngoại quốc, hoặc chuyển sang ngoại tệ và giữ trong tủ sắt tại nhà, để bảo đảm an toàn cũng như để tránh bại lộ. Điều này làm mất đi nguồn tư bản tối cần để đầu tư và phát triển quốc gia. Thiếu tư bản để đầu tư sẽ giới hạn hạ tầng cơ sở của quốc gia về mọi mặt, thế nên, sẽ làm giảm đi khả năng cạnh tranh của các công ty quốc nội trên thị trường quốc tế và mất đi sức hấp dẫn cho đầu tư ngọai quốc.

Chắc hẳn, tham nhũng có hệ thống tại Việt Nam không giới hạn trong lãnh vực ngân hàng, vốn là huyết mạch của nền kinh tế. Vấn đề tham nhũng ở đây đã dàn trải trong mọi lãnh vực hoạt động của quốc gia. Mặc dù dưới nhiều hình thái khác nhau, tai họa của tham nhũng đến mức độ tiết kiệm, đầu tư, phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội của một quốc gia và phúc lợi công cộng như nhau. Ảnh hưởng cộng hưởng của tính chất bao quát và phổ cập của nạn tham nhũng có hệ thống là biến chúng thành một mạng thiên la địa võng không đầu mối. Và trong mạng thiên la địa võng đó, luật hình sự thường được áp dụng để triệt hạ đối phương thay vì giải quyết vấn đề hình sự mà thôi. Dựa trên lý thuyết kinh tế hiện đại, được xây dựng trong các nước phát triển, Việt Nam có tiềm năng là một trong những quốc gia thành công nhất trong lãnh vực phát triển kinh tế, như Robert Zoellick dự đoán. Tuy nhiên, cái Việt Nam trong chúng ta hay “còn sót lại” trong chúng ta không khỏi làm chúng ta trăn trở cho số phận hẩm hiu của đại đa số hơn 90 triệu người Việt dưới vòm trời bị bao trùm bởi mạng lưới thiên la địa võng nêu trên vì họ bị bần cùng hóa bởi vấn nạn tham nhũng có hệ thống nơi đó. Ngoài những trăn trở cho bao người bị bần cùng hóa dưới vòm trời Việt Nam, chúng ta thật không biết nên vui hay buồn cho một tầng lớp mới và chỉ hiện hữu tại Việt Nam do thành quả của chính sách phát triển kinh tế được ông Zoellick ca tụng đó là các đại gia chân đất.

Lịch sử cận đại cho thấy thêm rằng, bè phái và độc quyền dưới mọi hình thái tất nhiên đưa đến tham nhũng, đồng thời đây cũng là những cản trở lớn nhất trong quá trình phát triển của nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia có mức thu nhập trung bình. Thế nên, để phát triển quốc gia các vấn nạn này cần phải được triệt để loại trừ. Quan trọ̣ng hơn nữa, những tệ trạng này đã và đang là nguyên nhân cho nền kinh tế Việt Nam mất đi sự đóng góp quan trọng về kỹ thuật và tư bản từ khối người Việt hải ngoại mặc dù chính quyền độc đảng của quốc gia này đã và đang cố mời gọi. Do đó, để đưa nền kinh tế tiến về phía trước, Việt Nam cần phải có một ý chí chính trị mạnh mẽ và cam kết về cải cách toàn bộ hệ thống công quyền, thực hiện kiểm tra và cân bằng để xây dựng các biện pháp, chính sách cần thiết để thiết lập một hệ thống ngân hàng cạnh tranh, nói riêng và cạnh tranh trong mọi hoạt động quốc gia nói chung.

Trong quá trình kiến tạo quốc gia, Việt Nam nên quan tâm và hiểu rõ chiến thuật và chiến lược để phát triển kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa khác hẳn với chiến thuật và chiến lược trong cuộc chiến quân sự. Cuộc chiến quân sự phải được giải quyết tại một vòn trời cố định; do đó, để chiến thắng, cần phải đánh bại đối phương trên mọi chiến trường bằng mọi thủ đoạn. Để phát triển kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa, chiến thuật và chiến lược là làm thế nào cho cả đôi bên cùng có lợi, vì  hoạt động kinh tế không phải thực thi tại một vòn trời cố định; do đó, nếu mãi bị thua bởi các trò bất chính của quốc gia gia chủ, hoặc kỹ năng của lực lượng lao động yếu kém, hạ tầng cơ sỡ kể cả hệ ̣ thống luật pháp không thỏa mãn nhu cầu của các đối tác, họ sẽ mang hoạt động kinh doanh của họ đến một vòm trời khác.

Cũng xin ghi nhận rằng trong thời đại toàn cầu hóa, năng xuất biên tế, đo lường bằng đơn vị hàng hóa sản xuất bởi một đơn vị lao động trong một thời gian, cùng với số lương của nhân công trong thời gian sản xuất đó, chứ không phải chỉ mức lương thấp của nhân công là yếu tố thu hút đầu tư trực tiếp từ các công ty đa quốc gia vì năng xuất biên tế và số lương quy định giá phí biên tế của sản phẩm được sản xuất. Ngoài yếu tố chính trị thế giới và chính trị khu vực, tổng số của gía phí biên tế và lệ phí chuyên chở của sản phẩm được sản xuất, nếu sản phẩm sản xuất để xuất cảng hoặc khả năng tiêu thụ của khách tiêu dùng tại quốc gia gia chủ, nếu sản phẩm sản xuất để cung cấp cho người bản xứ; cùng với mức độ tự do kinh tế thường là những yếu tố quyết định trong quá trình chọn lựa các quốc gia gia chủ cho những dự án đầu tư trực tiếp của các công ty đa quốc gia.

Thế nên, chỉ dựa vào yếu tố nhân công rẻ mà không lo chỉnh đốn hệ thống giáo dục để gia tăng năng xuất của lực lượng lao động, xây dựng hạ tầng cơ sở, cải tổ quy chế và luật pháp hầu gia tăng tự do kinh tế, cũng như vận dụng yếu tố chính trị thế giới và khu vực để mời gọi đầu tư ngoại quốc là một thiếu sót lớn (hiên tượng bằng cấp giả lan tràn là một thị́ dụ minh họa cho thực trạng tham nhũng và nền giáo dục hiện thời tại Việt Nam.)  Hơn nữa, đối với thành phần trí thức Việt Nam tại hải ngoại, đôi khi thắng lợi chỉ đơn giản là thỏa mãn lòng nhân đạo, mang phúc lợi, tự do và công bằng đến cho những mảnh đời bất hạnh trong nước; tuy nhiên, những kẻ sĩ này cũng rất kiên trì để đòi hỏi thắng lợi đơn giản và bảo vệ lý tưởng chính đáng đó của họ. Khó có thể chối cải rằng nguồn nhân lực và tài chính của người Việt tại hải ngoại, nếu được tận dụng, có thể giúpViệt Nam giải toả nhiều bế tắc nan giải. Bao nhiêu người Việt cả tại hải ngoại lẫn trong nước đang trăn trở cho quê hương, nhưng vì sự cam kết cho một nhà nước độc đảng mà sự ổn định xã hội và chính trị vẫn còn ngự trị tối cao, cùng với chiến thuật và chiến lược quái quăm và tệ trạng tham nhũng có hệ thống, chính quyền độc đảng của quốc gia này đã thất bại trong cố gắng mời gọi họ.

Chu Văn Nguyên, Ph.D., phó giáo sư kinh tế và tài chính cũng làKhoa-Trưởng của phân khoa gồm các ngành: kinh tế, tài chính, kế toán, ngoại thương, và điện toán doanh nghiệp.