fbpx

Kinh Doanh - Kinh Tế - Chính Trị

Quyền Lực Mềm

(Trích từ SOFT POWER của Joseph Nye, 2004)

Mọi người đều quen thuộc với quyền lực cứng. Chúng ta biết rằng quân sự và kinh tế có thể thường khiến người khác thay đổi lập trường của họ. Quyền lực cứng có thể dựa vào các khuyến dụ (“cà rốt”) hoặc các đe dọa (“gậy”). Nhưng đôi khi có thể nhận được kết quả ta muốn mà không có đe dọa hoặc mua chuộc cụ thể. Cách gián tiếp để có được những gì ta muốn đôi khi được gọi là “bộ mặt quyền lực thứ hai.” Một quốc gia có thể đạt được kết quả mà họ muốn trong chính trị thế giới vì được các quốc gia khác ngưỡng mộ các giá trị của nó, theo gương nó, khao khát mức độ thịnh vượng và cởi mở của nó – muốn theo nó. Theo nghĩa này, điều quan trọng là phải lập ra một bài bản thu hút những người khác trong chính trị thế giới, và không chỉ buộc họ phải thay đổi bằng đe dọa quân sự hoặc các biện pháp trừng phạt kinh tế. Quyền lực mềm này – làm người khác muốn có kết quả mà ta muốn – khiến người ta theo mình thay vì ép buộc họ.

Quyền lực mềm dựa vào khả năng định hướng sở thích của người khác. Ở cấp độ cá nhân, tất cả chúng ta đều quen thuộc với quyền lực của sự hấp dẫn và quyến rũ. Trong một mối quan hệ hoặc một cuộc hôn nhân, quyền lực không nhất thiết phải nằm trong đối tác lớn hơn, mà là trong sự hấp dẫn hóa học bí ẩn. Trong thế giới kinh doanh, các giám đốc điều hành thông minh biết rằng lãnh đạo không chỉ là vấn đề ban hành các mệnh lệnh, mà còn liên quan đến việc dẫn dắt bằng cách làm gương và lôi kéo người khác làm những gì mình muốn. Thật khó điều hành một tổ chức lớn chỉ bằng ra lệnh. Ta cũng cần phải khiến người khác chia sẻ cùng giá trị của mình. Tương tự như vậy, các hoạt động hiện đại trong việc trị an dựa vào cộng đồng chú trọng vào việc làm cho cảnh sát thân thiện khiến cho cộng đồng muốn giúp đỡ họ đạt được mục tiêu chung. Các nhà lãnh đạo chính trị từ lâu đã hiểu được quyền lực đến từ sự lôi cuốn. Nếu tôi có thể khiến bạn muốn làm những gì tôi muốn, thì tôi không phải sử dụng cà rốt hay gậy để bắt bạn làm điều đó. Trong khi các nhà lãnh đạo ở các nước độc tài có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế và ra lệnh thì các chính trị gia ở các nền dân chủ phải phụ thuộc nhiều hơn vào sự kết hợp giữa sự khuyến dụ và thu hút. Quyền lực mềm là một yếu tố chính của chính trị dân chủ hàng ngày. Khả năng tạo ra sở thích có xu hướng gắn liền với các đức tính vô hình như tính tình đáng mến, văn hóa, các giá trị chính trị và thể chế, và các chính sách được coi là hợp pháp hoặc hợp với  đạo đức. Một nhà lãnh đạo đại diện cho các giá trị mà người khác muốn theo thì đỡ phải bỏ ra nhiều công sức để lãnh đạo.

Quyền lực mềm không chỉ đơn thuần giống như ảnh hưởng. Nói cho cùng, ảnh hưởng cũng có thể dựa vào quyền lực cứng của các mối đe dọa hoặc giá phải trả. Và quyền lực mềm không chỉ là sự thuyết phục hay khả năng lung lạc con người bằng lý lẽ, mặc dù đó là một phần quan trọng. Đó cũng là khả năng thu hút, và thu hút thường dẫn đến sự mặc nhiên đồng ý. Nói một cách đơn giản, về mặt hành vi, quyền lực mềm là quyền lực thu hút. Về tài nguyên, tài nguyên năng lượng mềm là lợi khí tạo ra sức hút đó. Một lợi khí cụ thể có thể hay không là một tài nguyên năng lượng mềm tạo ra sự hấp dẫn có thể được đo lường bằng cách hỏi mọi người bằng các cuộc thăm dò hoặc phỏng vấn các nhóm điển hình. Sự hấp dẫn đó có tạo ra kết quả chính sách mong muốn hay không phải được đánh giá tùy theo trường hợp cụ thể. Sự hấp dẫn không phải lúc nào cũng xác định sở thích của người khác, nhưng khoảng cách giữa quyền lực được đo lường bằng tài nguyên và quyền lực được đánh giá là kết quả của hành vi không phải là yếu tố duy nhất đối với quyền lực mềm. Yếu tố đó xảy ra với tất cả các hình thức quyền lực. Trước khi Pháp sụp đổ năm 1940, Anh và Pháp có nhiều xe tăng hơn Đức, nhưng lợi thế về tài nguyên quyền lực quân sự đó không dự đoán chính xác kết quả của trận chiến. Một cách để suy nghĩ về sự khác biệt giữa quyền lực cứng và mềm là xem xét nhiều cách ta có thể đạt được kết quả mong muốn. Bạn có thể ra lệnh cho tôi thay đổi sở thích và làm những gì bạn muốn bằng cách đe dọa tôi bằng các biện pháp trừng phạt vũ lực hoặc kinh tế. Bạn có thể khiến tôi làm những gì bạn muốn bằng cách sử dụng quyền lực kinh tế của bạn để mua tôi. Bạn có thể hạn chế sở thích của tôi bằng cách sắp đặt khiến cho những mong muốn ngông cuồng của tôi dường như không thực tế. Hoặc bạn có thể cám dỗ tôi bằng tình cảm hoặc nghĩa vụ trong mối quan hệ của chúng ta và lôi cuốn các giá trị chung của chúng ta về sự công bằng trong việc đóng góp của chúng ta cho các giá trị và mục đích chung đó. Nếu tôi được thuyết phục đi theo cùng với mục đích của bạn mà không có bất kỳ mối đe dọa hoặc trao đổi rõ ràng nào – nói tóm lại, nếu hành vi của tôi được xác định bởi một sức hấp dẫn vô hình nhưng có thể quan sát được thì đó chính là quyền lực mềm đang tác động. Quyền lực mềm sử dụng một loại phương tiện trao đổi khác (không nhất thiết phải là tiền) để tăng cường hợp tác – thu hút các giá trị chung và sự công bằng và nghĩa vụ đóng góp để đạt được các giá trị đó. Cũng như Adam Smith thấy rằng mọi người được dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình khi đưa ra quyết định trong một thị trường tự do, các quyết định của chúng ta trên thị trường ý tưởng thường được hình thành bởi quyền lực mềm – một sức hấp dẫn vô hình thuyết phục chúng ta đi theo mục đích của người khác mà không diễn ra bất kỳ mối đe dọa hoặc trao đổi rõ ràng nào.

Quyền lực cứng và mềm có liên quan vì cả hai đều là hai khía cạnh của khả năng đạt được mục đích bằng cách ảnh hưởng đến hành vi của người khác. Sự khác biệt giữa hai lực là khác biệt về mức độ của cả bản chất và cách hành động và tính hữu hình của các tài nguyên. Quyền lực chỉ huy – khả năng thay đổi những gì người khác làm – có thể dựa trên sự ép buộc hoặc xúi giục. Quyền lực đồng hóa – khả năng uốn nắn những gì người khác muốn – có thể dựa trên sự hấp dẫn của văn hóa và giá trị của một người hoặc khả năng chuyển hướng những toan tính chính trị khiến người khác không thể đưa ra một số sở thích vì dường như họ thấy là không thực tế. Các loại hành vi giữa ra lệnh và đồng hóa ở trong mức độ chuyển biến dần dần từ cưỡng bách đến khuyến dụ kinh tế, đến lập chương trình dự định thi hành và đến thuần túy thu hút. Tài nguyên quyền lực mềm có xu hướng đi đôi với phần đồng hóa trong mức độ chuyển biến của hành động. Còn tài nguyên của quyền lực cứng thường đi đôi với hành vi ra lệnh trong mức độ chuyển biến của hành động. Nhưng sự liên quan đó không nhất thiết phải như vậy. Ví dụ, đôi khi có quốc gia có thể bị lôi cuốn bởi những người có quyền chỉ huy vì huyền thoại bách chiến bách thắng và quyền chỉ huy đôi khi có thể được sử dụng để thiết lập các thể chế mà sau này được coi là hợp pháp. Một nền kinh tế mạnh không chỉ cung cấp các nguồn lực cho các biện pháp trừng phạt và thanh toán, mà còn có thể là một nguồn lôi cuốn.

Tuy nhiên, nói chung, mối liên hệ tổng quát giữa các loại hành vi và các tài nguyên nhất định đủ chặt chẽ để khiến chúng ta dùng tài liệu tham chiếu ngắn gọn và tiện dụng về các tài nguyên quyền lực cứng và mềm.

Trong chính trị quốc tế, các nguồn lực tạo ra quyền lực mềm phát sinh phần lớn từ các giá trị mà một tổ chức hoặc quốc gia thể hiện trong văn hóa của nó, trong các tấm gương mà nó đặt ra bởi các hoạt động và các chính sách nội bộ và theo cách tổ chức hoặc quốc gia đó xử lý các mối quan hệ của nó với những tổ chức khác. Chính quyền đôi khi cảm thấy khó kiểm soát và sử dụng quyền lực mềm, nhưng điều đó không làm giảm tầm quan trọng của quyền lực này. Chính một cựu bộ trưởng ngoại giao Pháp đã nhận xét rằng người Mỹ mạnh vì họ có thể “truyền cảm hứng cho những giấc mơ và ước vọng của người khác, nhờ sự làm chủ hình ảnh toàn cầu thông qua phim ảnh và truyền hình và vì những lý do tương tự, số lượng lớn sinh viên từ các quốc gia khác đến Hoa Kỳ để hoàn thành công trình nghiên cứu của họ.” Quyền lực mềm là một thực tế quan trọng. Ngay cả nhà hiện thực lỗi lạc người Anh E. H. Carr, viết năm 1939, đã mô tả quyền lực quốc tế trong ba phạm trù: quân sự, kinh tế và quyền lực đối với ý kiến. Những người phủ nhận tầm quan trọng của quyền lực mềm giống như những người không hiểu quyền lực của sự quyến rũ.

Trong cuộc gặp với Tổng thống John F. Kennedy, chính khách lão thành John J. McCloy đã nổi giận về việc chú ý đến sự danh vọng và lôi cuốn trong chính trị thế giới: “Dư luận thế giới’? Tôi không tin vào dư luận thế giới. Điều quan trọng duy nhất là quyền lực.” Nhưng cũng như Woodrow Wilson và Franklin Roosevelt, Kennedy hiểu rằng khả năng thu hút người khác và làm thay đổi ý kiến ​​là một yếu tố của quyền lực.! Ông hiểu tầm quan trọng của quyền lực mềm.

Như đã đề cập ở trên, đôi khi các tài nguyên quyền lực tương tự có thể ảnh hưởng đến toàn bộ phương thức hành động từ cưỡng chế đến thu hút. Một quốc gia bị suy giảm kinh tế và quân sự có khả năng mất không chỉ các nguồn lực mạnh mà còn một số khả năng để định hình hành động quốc tế và một số sức hấp dẫn của nó. Một số quốc gia có thể bị lôi cuốn bởi những người khác có quyền lực cứng do huyền thoại bách chiến bách thắng hoặc số mệnh [của lịch sử]. Cả Hitler và Stalin đều cố gắng tạo ra những huyền thoại như vậy. Quyền lực cứng cũng có thể được sử dụng để thiết lập các đế chế và thể chế quyết định đường lối hành động cho các quốc gia nhỏ hơn – như quyền cai trị của Liên Xô đối với các quốc gia Đông Âu. Tổng thống Kennedy đã quan tâm đúng mức rằng mặc dù các cuộc thăm dò cho thấy Hoa Kỳ trở nên được nhiều người thích hơn, nhưng các cuộc thăm dò ý kiến cũng cho thấy Liên Xô dẫn đầu trong nhận thức về chương trình không gian và sức mạnh của kho vũ khí hạt nhân.

Nhưng quyền lực mềm không phụ thuộc vào quyền lực cứng. Vatican có quyền lực mềm mặc dù Stalin đã từng hỏi một cách chế giễu “Giáo hoàng có bao nhiêu sư đoàn?” Liên Xô đã từng có một quyền lực mềm, nhưng nó đã mất phần lớn quyền lực đó sau cuộc xâm lược Hungary và Tiệp Khắc. Quyền lực mềm của Liên Xô đã giảm ngay cả khi các nguồn lực kinh tế và quân sự cứng của nó tiếp tục phát triển. Vì những chính sách tàn bạo của nó, quyền lực cứng của Liên Xô thực sự đã làm giảm quyền lực mềm của nó. Ngược lại, phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở Phần Lan được củng cố bởi một mức độ quyền lực mềm. Tương tự như vậy, phạm vi ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở Châu Mỹ Latinh vào những năm 1930 đã được củng cố khi Franklin Roosevelt thêm quyền lực mềm bằng chính sách “người láng giềng tốt ” của ông.

Đôi khi các quốc gia được hưởng quyền lực chính trị lớn hơn sức mạnh quân sự và kinh tế của họ bởi vì họ xác định lợi ích quốc gia của họ bao gồm các tôn chỉ hấp dẫn như viện trợ kinh tế hoặc hòa bình. Ví dụ, trong hai thập kỷ qua, Na Uy đã tham gia các cuộc đàm phán hòa bình ở Philippines, Balkans, Colombia, Guatemala, Sri Lanka và Trung Đông. Người Na Uy nói rằng điều này phát xuất từ di sản truyền giáo Luther của họ, nhưng đồng thời vai trò hòa giải khiến cho  Na Uy được đồng  hóa với các giá trị được chia sẻ cùng các quốc gia khác; điều này giúp tăng cường quyền lực mềm của Na Uy. Bộ trưởng Ngoại giao Jan Peterson lập luận rằng “chúng tôi có được một số khả năng tiếp cận”, ông giải thích rằng tư thế của Na Uy tại rất nhiều cuộc đàm phán nâng cao tính hữu dụng và giá trị của Na Uy đối với các nước lớn hơn.

Michael Ignatieff cũng mô tả tư thế của Canada theo một quan điểm tương tự: “Ảnh hưởng xuất phát từ ba ưu điểm: chúng tôi có vài thẩm quyền đạo đức của một công dân tốt, chúng tôi có rất ít khả năng quân sự nhưng có nhiều khả năng hỗ trợ quốc tế.” Đối với Hoa Kỳ, “chúng tôi có thứ họ muốn. Họ cần tính hợp pháp.” Điều đó có thể làm tăng ảnh hưởng của Canada khi thương lượng với người láng giềng [Hoa kỳ] khổng lồ. Chính phủ Ba Lan quyết định gửi quân tới Iraq sau chiến tranh không chỉ để muốn làm vui lòng Hoa Kỳ mà còn là một cách để tạo ra một hình ảnh tích cực rộng lớn hơn về Ba Lan trong các vấn đề thế giới. Khi chính quyền Taliban sụp đổ ở Afghanistan vào năm 2001, ngoại trưởng Ấn Độ đã bay tới Kabul để chào đón chính phủ lâm thời mới trong một chiếc máy bay không chứa đầy vũ khí hay thực phẩm mà đầy những băng phim và nhạc Bollywood, để phân phát nhanh chóng khắp thành phố. Như chúng ta sẽ thấy trong chương 3, nhiều quốc gia có tài nguyên năng lượng mềm.[*]

Các định chế có thể tăng tiến quyền lực mềm của một quốc gia. Ví dụ, Anh vào thế kỷ XIX và Hoa Kỳ vào nửa sau của thế kỷ XX đã nâng cao giá trị của họ bằng cách tạo ra một cấu trúc của các quy tắc và thể chế quốc tế phù hợp với bản chất tự do và dân chủ của các hệ thống kinh tế Anh và Mỹ: tự do mậu dịch và tiêu chuẩn vàng trong trường hợp của Anh; Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tổ chức Thương mại Thế giới, và Liên Hợp Quốc (trong trường hợp của Hoa Kỳ). Khi các quốc gia làm cho quyền lực của họ trở nên hợp lý dưới mắt người khác, thì ý muốn của họ ít bị chống đối. Nếu văn hóa và ý thức hệ của một quốc gia hấp dẫn, những người khác sẵn sàng làm theo. Nếu một quốc gia có thể đưa ra các quy tắc quốc tế phù hợp với lợi ích và giá trị của mình, thì hành động của quốc gia đó nhiều khả năng sẽ có vẻ hợp lý đối với người khác. Nếu quốc gia đó sử dụng các định chế và tuân theo các quy tắc khiến cho các quốc gia khác chuyển hướng hoặc giới hạn các hoạt động của họ theo chiều hướng mà quốc gia đó mong muốn và sẽ không phải tốn công đe dọa hoặc dụ dỗ.

NGUỒN QUYỀN LỰC MỀM

Quyền lực mềm của một quốc gia chủ yếu dựa vào ba nguồn lực: văn hóa của nó (ở những điểm hấp dẫn người khác), giá trị chính trị của nó (được tôn trọng cả trong lẫn ngoài nước), và chính sách đối ngoại của họ (khi họ được nhìn nhận là chính đáng và có thẩm quyền đạo đức.)

Hãy bắt đầu với văn hóa. Văn hóa là tập hợp các giá trị và hành động tạo ra ý nghĩa cho một xã hội. Văn hóa biểu hiện dưới nhiều hình thức. Người ta thường phân biệt giữa văn hóa cao cấp như văn học, nghệ thuật và giáo dục, vốn hấp dẫn giới thượng lưu và văn hóa đại chúng, tập trung vào giải trí đại chúng.

Khi văn hóa của một quốc gia bao gồm các giá trị phổ quát và các chính sách của nó phát huy các giá trị và lợi ích mà người khác chia sẻ, nó sẽ tăng xác suất đạt được kết quả mong muốn vì các mối quan hệ của sự hấp dẫn và nghĩa vụ mà nó tạo ra. Giá trị hẹp và văn hóa có tính cách phường hội ít có khả năng tạo ra quyền lực mềm. Hoa Kỳ được thụ hưởng một nền văn hóa phổ quát. Chủ biên [báo Die Zeit] người Đức Josef Joffe từng lập luận rằng quyền lực mềm của Mỹ thậm chí còn lớn hơn cả tích sản kinh tế và quân sự. “Văn hóa Hoa Kỳ, thượng lưu và đại chúng, tỏa ra bên ngoài với một cường độ chưa từng thấy  từ thời Đế chế La Mã – nhưng với một đặc điểm mới lạ. Ảnh hưởng văn hóa La Mã và Liên Xô  chỉ giới hạn ở những nơi họ kiểm soát bằng võ lực còn quyền lực mềm của Hoa Kỳ thống trị cả một đế quốc không bao giờ có mặt trời lặn!”

Một số nhà phân tích coi quyền lực mềm chỉ là quyền lực văn hóa đại chúng. Họ sai lầm khi đồng hóa hành vi quyền lực mềm với tài nguyên văn hóa – là nhân tố đôi khi tạo ra quyền lực mềm. Họ lẫn lộn tài nguyên văn hóa với hành vi thu hút. Ví dụ, nhà sử học Niall Ferguson mô tả quyền lực mềm là “các lực lượng không có tính cách truyền thống như văn hóa phẩm và hàng hoá thương mại” và sau đó bác bỏ nó với lý do “[quả thực] đó là các thứ mềm.”  Tất nhiên, Coke và Big Mac không nhất thiết phải thu hút mọi người trong thế giới Hồi giáo khiến họ thích Hoa Kỳ. Nhà độc tài Triều Tiên Kim Jong Il bị cáo buộc thích bánh pizza và video của Mỹ, nhưng điều đó không ảnh hưởng đến các chương trình võ khí hạt nhân của ông. Rượu vang và pho mát tuyệt vời không đảm bảo cho người ta thích Pháp, và trò chơi Pokemon được mọi người hâm mộ cũng không bảo đảm là Nhật Bản sẽ nhận được kết quả của chính sách mà họ thích.

Điều này không phủ nhận rằng văn hóa đại chúng thường là một tài nguyên tạo ra quyền lực mềm, nhưng như chúng ta đã thấy trước đó, hiệu quả của bất kỳ tài nguyên năng lượng nào phụ thuộc vào bối cảnh. Xe tăng không phải là một nguồn lực quân sự lớn trong đầm lầy hoặc rừng rậm. Than và thép không phải là nguồn năng lượng chính nếu một quốc gia thiếu cơ sở công nghiệp. Người Serb ăn tại McDonald ủng hộ Milosevic và người Rwanda phạm tội tàn bạo trong khi mặc áo phông (T-shirts) có quốc hiệu Hoa Kỳ. Những bộ phim Mỹ làm cho Hoa Kỳ hấp dẫn ở Trung Quốc hoặc Mỹ Latinh có thể có tác dụng ngược lại và thực sự làm giảm quyền lực mềm của Mỹ ở Ả Rập Saudi hoặc Pakistan. Nhưng nói chung, các cuộc thăm dò cho thấy văn hóa quần chúng của chúng ta [Hoa kỳ] đã khiến Hoa Kỳ dường như trở nên “sống động, kỳ lạ, giàu có, mạnh, đi tiên phong trong công cuộc định hướng tiên tiến hiện đại và sáng kiến.” Và những hình ảnh như vậy có sức hấp dẫn “trong thời đại khi mọi người muốn tham gia vào một cuộc sống tốt đẹp theo kiểu Mỹ, ngay cả khi dưới con mắt của công dân chính trị, họ nhận thức được nhược điểm về sinh thái, cộng đồng và bình đẳng [tại Mỹ].” Ví dụ, khi giải thích một phong trào mới hay dùng kiện tụng khẳng định quyền tại Trung quốc, một nhà hoạt động Trung Quốc trẻ tuổi giải thích: “Chúng tôi đã xem rất nhiều phim Hollywood – họ chiếu đám cưới, đám tang và  ra tòa kiện nhau. Vì vậy, bây giờ chúng tôi nghĩ rằng việc ra tòa một vài lần trong đời là điều tự nhiên.”  Nếu mục tiêu của Mỹ bao gồm củng cố hệ thống pháp luật ở Trung Quốc, những bộ phim như vậy có thể hiệu quả hơn những bài phát biểu của đại sứ Mỹ về tầm quan trọng của luật pháp.

Như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, trong bối cảnh hấp dẫn (cũng như không hấp dẫn) của văn hóa đại chúng Mỹ ở các khu vực khác nhau và giữa các nhóm khác nhau có thể khiến các quan chức Mỹ dễ dàng hoặc khó khăn hơn trong việc thúc đẩy chính sách của họ. Trong một số trường hợp, chẳng hạn như Iran, những hình ảnh tương tự của phim Hollywood khiến các mullah cầm quyền khó chịu nhưng lại có thể hấp dẫn thế hệ trẻ. Ở Trung Quốc, hiện tượng hấp dẫn và bài bác văn hóa Mỹ giữa các nhóm khác nhau có thể hóa giải nhau.

Thương mại chỉ là một trong những cách truyền tải văn hóa. Truyền tải cũng xảy ra qua quan hệ cá nhân, tham quan và trao đổi. Những ý tưởng và giá trị mà nước Mỹ – phổ biến tới tâm trí của hơn nửa triệu sinh viên nước ngoài học tập hàng năm tại các trường đại học Mỹ và sau đó trở về nước họ, hoặc trong tâm trí của các doanh nhân châu Á trở về nước sau khi thành công ở Thung lũng Silicon – có xu hướng đạt đến giới thượng lưu có quyền lực. Hầu hết các nhà lãnh đạo của Trung Quốc đều có con trai hoặc con gái được giáo dục tại Hoa Kỳ, những người trẻ này có thể miêu tả một cái nhìn thực tế về Hoa Kỳ hoàn toàn khác hẳn với những bức tranh biếm họa trong tuyên truyền của Trung Quốc. Tương tự như vậy, khi Hoa Kỳ cố gắng thuyết phục Tổng thống Musharraf của Pakistan thay đổi chính sách của mình và ủng hộ nhiều hơn các biện pháp của Mỹ ở Afghanistan, thì ông Musharraf có thể nghe theo qua lời nói của người con trai đang làm việc ở trong vùng Boston.

Chính sách của chính phủ trong và ngoài nước là một nguồn quyền lực mềm tiềm tàng khác. Ví dụ, tình trạng phân biệt chủng tộc tại Mỹ vào những năm 1950 đã  làm mất quyền lực mềm của Mỹ ở châu Phi, và ngày nay, việc thực hành hình phạt tử hình và luật lỏng lẻo về kiểm soát súng đã làm giảm quyền lực mềm của Mỹ ở châu Âu. Tương tự như vậy, các chính sách đối ngoại ảnh hưởng mạnh đến quyền lực mềm. Các chính sách nhân quyền của Jimmy Carter là một trường hợp điển hình, cũng như vậy đối với các nỗ lực của chính phủ nhằm thúc đẩy dân chủ trong chính quyền Reagan và Clinton. Ở Argentina, các chính sách nhân quyền của Mỹ – bị chính phủ quân sự trong những năm 1970 bác bỏ – đã tạo ra quyền lực mềm đáng kể cho Hoa Kỳ hai thập kỷ sau đó, khi những người Peronist bị cầm tù trước đó lên nắm quyền. Các chính sách có thể có tác động dài hạn cũng như ngắn hạn khác nhau khi bối cảnh thay đổi. Cảm tình của quần chúng đối với Hoa Kỳ tại Argentina vào đầu những năm 1990 đã phản ánh chính sách của Carter trong những năm 1970 và nó đã khiến chính phủ Argentina ủng hộ các chính sách của Mỹ ở Liên Hợp Quốc và tại Balkan. Tuy nhiên, quyền lực mềm của Mỹ đã bị xói mòn đáng kể sau khi bối cảnh thay đổi một lần nữa trong thập kỷ sau đó khi Hoa Kỳ thất bại trong việc giải cứu nền kinh tế Argentina khỏi sự sụp đổ.

Chính sách của chính phủ có thể củng cố hoặc làm lãng phí quyền lực mềm của một quốc gia. Các chính sách đối nội hoặc đối ngoại có vẻ đạo đức giả, kiêu ngạo, thờ ơ với ý kiến ​​của người khác hoặc dựa trên cách tiếp cận hẹp hòi đối với lợi ích quốc gia có thể làm suy yếu quyền lực mềm. Ví dụ, khi sức hấp dẫn của Hoa Kỳ suy giảm mạnh – đo bằng các cuộc thăm dò thực hiện sau Chiến tranh Iraq năm 2003 – phần lớn những người có quan điểm chống Mỹ cho biết họ phản ứng với chính quyền và chính sách Bush chứ không phải với Hoa Kỳ nói chung. Cho đến nay, họ phân biệt người dân và văn hóa Mỹ với các chính sách của Mỹ. Công chúng ở hầu hết các quốc gia tiếp tục ngưỡng mộ Hoa Kỳ về công nghệ, âm nhạc, phim ảnh và truyền hình. Nhưng đa số lớn ở hầu hết các quốc gia cho biết họ không thích ảnh hưởng ngày càng tăng của Mỹ ở nước họ.

Chiến tranh Iraq năm 2003 không phải là hành động chính sách đầu tiên khiến Hoa Kỳ không được ưa chuộng. Như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, ba thập kỷ trước, nhiều người trên thế giới đã phản đối chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam và mức độ ưa thích đối với Hoa Kỳ phản ánh sự không tán thành  chính sách đó. Khi chính sách thay đổi và ký ức về cuộc chiến đã phai nhạt, Hoa Kỳ đã phục hồi phần lớn quyền lực mềm đã mất. Liệu hiện tượng  tương tự có xảy ra không sau hậu quả của chiến tranh Iraq phụ thuộc vào sự thành công của các chính sách ở Iraq, diễn tiến tương lai trong cuộc xung đột giữa Israel và Palestine và nhiều yếu tố khác. Các giá trị mà chính phủ đang chủ trương trong nước (ví dụ, dân chủ), trong các thể chế quốc tế (làm việc với người khác) và trong chính sách đối ngoại (thúc đẩy hòa bình và nhân quyền) ảnh hưởng mạnh đến ý thích của người khác. Chính phủ có thể thu hút hoặc làm người khác lánh xa bằng ảnh hưởng của những hành động của họ. Nhưng chính phủ không làm chủ được quyền lực mềm như đối với quyền lực cứng. Một số tích sản quyền lực cứng như lực lượng vũ trang là hoàn toàn do chính phủ làm chủ; những tích sản khác vốn có trong nước – như trữ lượng dầu mỏ và khoáng sản – có thể được chuyển sang quyền kiểm soát tập thể – như đội máy bay dân sự – có thể được huy động trong trường hợp khẩn cấp. Trái lại, nhiều nguồn tài nguyên năng lượng mềm tách biệt với chính phủ Mỹ và chỉ đáp ứng một phần cho các mục đích của chính phủ. Ví dụ, trong chiến tranh Việt Nam, văn hóa đại chúng Mỹ thường đi ngược với chính sách của chính phủ. Ngày nay, các bộ phim Hollywood cho thấy những người phụ nữ mặc quần áo hở hang có thái độ phóng đãng hoặc các nhóm Cơ đốc giáo chính thống kịch liệt đả kích đạo Hồi là một tà giáo, đều ở ngoài sự kiểm soát của chính phủ trong một xã hội tự do, nhưng họ đã làm phương hại những nỗ lực của chính phủ nhằm cải thiện quan hệ với các quốc gia Hồi giáo.

Bảng So sánh Quyền lực Mềm [*]

Trần Lương Ngọc chuyển ngữ

© Học Viện Công Dân September 2020

[*] Phụ bản do người dịch bổ sung theo tài liệu  https://en.wikipedia.org/wiki/Soft_power

  • “Soft Power Survey 2018/19”. Monocle. 2018.
  • “The Soft”Soft Power Survey 2018/19″. Monocle. 2018. Power 30 – Ranking” (PDF). Portland.
  • “The Soft Power 30 – Ranking”. Portland.