fbpx

Search Results for: Luận cương 11

Luận cương 6

Luận về Những Nguy cơ Mâu thuẫn giữa các Tiểu bang Alexander Hamilton   Cùng đồng bào tiểu bang new York: Ba bài tham luận vừa qua đã được dành để liệt kê những nguy cơ mà chúng ta, nếu còn ở trong tình trạng phân hóa, sẽ phải đối phó với sức mạnh quân sự và âm mưu của ngoại bang. Sau đây, tôi sẽ trình bày những nguy cơ thuộc một loại khác, và, có lẽ, còn đáng sợ hơn nhiều – đó là những nguy cơ đến từ những sự bất đồng giữa chính các Tiểu bang, và từ những xung đột phe nhóm nội bộ. Trong một số trường hợp, những nguy cơ loại này cũng đã từng được tiên liệu; tuy nhiên ta cũng cần  phải phân tích và nghiên cứu kỹ càng hơn. Kẻ nào mà còn có thể nghi ngờ rằng sự phân hóa giữa các tiểu bang, gây nên bởi sự thiếu kết hợp toàn phần hay chỉ từng phần, sẽ không tạo nên các cuộc tranh đấu bạo lực với nhau, thì kẻ đó thật là kẻ suy nghĩ vẩn vơ, không tưởng. Còn cho rằng các tiểu bang không có động cơ để tranh đấu với nhau để lập luận rằng những sự tranh cạnh như vậy không xảy ra, thì cũng đã quên mất rằng bản chất con người là ham muốn danh vọng, sân hận, và tham lam của cải. Còn nếu mà cứ muốn tìm một sự hài hòa liên tục giữa một số các nước độc lập nhưng không có liên hệ gì với nhau, lại cùng ở trên một lãnh thổ, tức là đã coi thường tiến trình không thay đổi trong sinh hoạt của loài người, và thách thức túi khôn của nhân loại đã được tích lũy qua thời gian. Có rất nhiều lý do gây chiến giữa các quốc gia. Có những lý do đã trở thành gần như là hệ quả tất nhiên của quan hệ giữa một tập thể các đơn vị trong xã hội. Những  lý do này gồm có lòng yêu chuộng quyền thế, hay là lòng ham muốn lấn át  và thống trị người khác hay lòng ganh ghét quyền lực, hoặc sự khát khao có sự bình đẳng và an ninh. Có nhiều lý do khác với những động lực giới hạn hơn, nhưng cũng có tác dụng tương tự trong phạm vi giới hạn đó. Đó là những tranh chấp và cạnh tranh thương mại giữa các nước với nhau. Cũng còn có những lý do khác, cũng không kém hơn những loại lý do trên, và đều phát xuất từ những động lực cá nhân; từ những mối ràng buộc, thù hận, quyền lợi, hy vọng hay lo sợ của những người lãnh đạo trong những cộng đồng riêng biệt của họ. Những người loại này, dù được vua chúa hay nhân dân tin cậy, đều có cơ hội để lợi dụng lòng tin mà họ đã được trao cho; và giả danh vì lợi ích chung, họ chẳng ngần ngại gì mà chẳng […]

Read more

Chính Trị Luận – Aristotle

LỜI GIỚI THIỆU   (Chính Trị Luận được dịch từ bản tiếng Anh của Ernest Barker do Nhà Xuất bản Claredon Press ấn hành năm 1946) Bối cảnh lịch sử Khoảng 4000 năm trước, ở Âu châu chỉ có những giống dân du mục. Từ sông Danube, một giống dân du mục tiến dần về phương nam để tìm những đồng cỏ xanh tốt hơn và dừng chân ở bán đảo Greece. Họ lấy tên thủy tổ của họ là Hellene để làm tên gọi. Người Trung Hoa sau này phiên âm Hellene thành Hy Lạp, và ta cũng quen theo lối gọi này.[1] Ngày nay, Hy Lạp dùng  địa danh để đặt tên nước của họ: Greece.  Tên chính thức là Cộng hòa Hellenic. Thời cổ, Hy Lạp không phải là một nước thống nhất như ngày nay mà gồm nhiều thành phố được tổ chức như những quốc gia gọi là thị-quốc; mỗi thị-quốc độc lập với nhau và có cách tổ chức chính trị khác nhau. Các thị-quốc nổi tiếng gồm có Athens, Thebes, và Sparta. Tuy cùng một chủng tộc nhưng dân thị-quốc này lại coi dân thị-quốc khác như thù địch và chém giết lẫn nhau. Sparta và Athens là hai thái cực. Dân Sparta được huấn luyện để sống khắc kỷ từ nhỏ, một đời sống giản dị và cực kỳ trọng võ. Trái lại, dân Athens sống xa hoa, theo công nghệ và yêu chuộng thương mại. Về chính trị các thị quốc Hy Lạp đều theo quân chủ. Sau khi vua Alcmaeon băng hà vào năm 753 trước Thiên Chúa giáng sinh (BC), Athens được tổ chức theo dân chủ nghị viện: công dân được quyền bầu nghị viên, nhưng chức vụ thẩm phán vẫn dành cho quý tộc. Đến thế kỷ thứ 5  (BC), Athens hoàn toàn theo thể chế dân chủ trực tiếp. Mọi công dân đều trực tiếp tham gia việc nước: nghị luận, bàn cãi, bầu bán, biểu quyết, vân vân. Do đó, Athens được coi là nơi có chế độ dân chủ đầu tiên, nơi mà mọi người dân đều được tham gia chính sự. Tuy nhiên, đây cũng là nhược điểm, vì “quyết định của chính phủ thường chậm trễ, dân chúng quen thói bàn bạc, cãi cọ nhau, mồm mép giỏi mà hành động dở, dễ chia rẽ vì những lẽ nhỏ nhặt.”[2] Dầu sao, nhờ tính chất tự do tư tưởng mà Athens trở thành một môi trường thuận lợi cho các triết gia như Socrates và sau đó, học trò ông là Plato đã phát triển học thuật đủ mọi ngành. Từ đó, Athens trở  thành trung tâm tư tưởng và học thuật của cả bán đảo Hy Lạp; sau này, chính là cái nôi văn hóa và tư tưởng của Tây phương. Aristotle: Thân thế và sự nghiệp Aristotle không những là một trong những triết gia vĩ đại của Cổ Hy Lạp mà còn của thế giới Tây phương. Ông sinh năm 384 và mất năm 322 (BC) tại Stagira, một thị trấn nhỏ phía đông thành phố Salonica, sát biên […]

Read more

Đề Mục I

VỀ NHU CẦU THÀNH LẬP LIÊN BANG THỐNG NHẤT (Tham luận 1 đến 14) Dẫn Nhập Vào năm 1776, đại biểu của 13 thuộc địa Mỹ họp lại thành Hội Nghị Đại Biểu đầu tiên để cùng nhau soạn thảo bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ, và điều hành cuộc chiến đấu chống lực lượng Đế Quốc Anh Hoàng. Hội Nghị Đại Biểu này, được gọi là “Continental Congress,” trở thành trung tâm quyền lực đầu tiên kết hợp nhân-vật lực của 13 thuộc địa vào trong cuộc chiến chống Đế Quốc Anh. Sau đó, một văn bản mang tên Điều Khoản Liên Hiệp các Tiểu Bang và Đoàn Kết Vĩnh Cửu (Articles of Confederation and Perpetual Union) cũng đã được soạn thảo và thông qua để trở thành hiến chương đầu tiên cho việc thành lập và tổ chức một liên hiệp các cựu thuộc địa Anh Quốc trong suốt cuộc chiến tranh giành độc lập. Tuy nhiên, trong việc điều hành hoạt động của liên hiệp các cựu lãnh thổ thuộc địa – nay đã trở thành những tiểu bang độc lập – khuyết điểm của các điều khoản được quy định trong văn bản này ngày càng lộ rõ. Những quyết định của cơ cấu chính quyền trung ương phôi thai này thường không nhận được sự hỗ trợ tích cực của chính quyền tại các tiểu bang, vốn vẫn muốn bảo vệ quyền hạn của địa phương mình. Những khó khăn chính yếu của cơ cấu chính quyền trung ương tập trung vào các lãnh vực như thâu thuế, điều hành ngoại thương và thực hiện một chính sách ngoại giao chung đối với các nước ngoài. Trong thời kỳ chiến tranh, cũng đã có nhiều cố gắng sửa đổi và bổ xung bản hiến chương liên hiệp này để giải quyết những khó khăn nói trên, tuy nhiên vào thời đó, sự chống đối của các tiểu bang vẫn tiếp tục gây rất nhiều trở ngại cho hoạt động của cơ cấu chính quyền trung ương. Sau khi chiến tranh chấm dứt, đại biểu các tiểu bang lại họp lại với mục đích tu sửa những điều khoản trong bản hiến chương. Tuy nhiên, trong lúc thảo luận việc sửa đổi văn bản này, một số đại biểu đã đề nghị nên loại bỏ hẳn văn bản cũ để tiến hành việc soạn thảo một bản hiến pháp hoàn toàn mới để thiết lập một cơ cấu chính quyền trung ương mạnh với những quyền hạn nhất định và rộng rãi hơn. Vào ngày 17 tháng Chín 1787, bản Dự thảo Hiến pháp được hoàn tất và được đại biểu có mặt bỏ phiếu chấp thuận và được phổ biến đến chính quyền tại mỗi tiểu bang để được thảo luận tại từng địa phương trước khi biểu quyết phê chuẩn. 14 bài tham luận đầu tiên trong Luận Cương về Thể Chế Liên Bang có mục đích trình bầy và giải thích những lợi điểm của một thể chế liên bang với một cơ cấu chính quyền trung ương mạnh, nhằm đáp […]

Read more

NỀN DÂN CHỦ MỸ VẪN ĐANG LÂM NGUY

Làm thế nào để bảo vệ nó chống lại thù trong giặc ngoài Erin Baggott Carter, Brett L. Carter và Larry Diamond Hai năm trước, chế độ dân chủ của Hoa Kỳ phải đối mặt với một thử thách chưa từng có khi những người ủng g thống Donald Trump tìm cách đảo ngược thất bại trong cuộc bầu cử của ông—có nhóm bằng các mưu toan phi pháp, nhóm khác bằng một cuộc tấn công bạo lực vào Điện Capitol của Hoa Kỳ. Kể từ điểm thấp lịch sử đó, nền dân chủ Mỹ đã bắt đầu hoạt động tốt hơn và triển vọng của nó bắt đầu được cải thiện. Cuộc bầu cử năm 2022 đã được tiến hành thành công và những người phản đối bầu cử cực đoan đã thua ở các bang do dự quan trọng như Arizona và Pennsylvania. Ủy ban Đặc biệt Hạ viện để Điều tra Cuộc Tấn công ngày 6 tháng 1 vào Điện Capitol của Hoa Kỳ đã ghi lại một cách chính thức các cuộc bạo loạn nhằm lật ngược kết quả của cuộc bầu cử năm 2020 và vai trò xúi giục của cựu Tổng thống Hoa Kỳ Donald J. Trump. Ở Brazil và Pháp, các ứng cử viên có sự cam kết đáng ngờ vào chế độ dân chủ đã bị đánh bại trong các cuộc bầu cử tổng thống, và các cuộc bầu cử hòa bình được tổ chức ở Colombia. Trong khi đó, các chế độ độc tài mạnh nhất thế giới đang gặp khó khăn. Cuộc chiến do Tổng thống Nga Vladimir Putin chủ trương và tiến hành một cách thảm hại tại Ukraine đã phá tan huyền thoại về một Mátxcơva đang trỗi dậy. Nỗ lực của Trung Quốc để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới và cường quốc có ảnh hưởng nhất đã sụp đổ do sự quản lý yếu kém tồi tệ của Chủ tịch Tập Cận Bình đối với đại dịch COVID-19. Bong bóng bất động sản của Trung Quốc, tỷ lệ thất nghiệp trong giới thanh niên là 20%, đàn áp khu vực tư nhân do động cơ chính trị và nợ chính quyền địa phương càng ngày càng lớn đã khiến cho hậu thuẫn trong nước của Tập Cận Bình suy giảm thêm. Mặc dù Bắc Kinh và Mátxcơva đang suy yếu, nhưng họ vẫn là mối đe dọa nghiêm trọng đối với nền dân chủ. Các vấn đề trong nước của họ càng trở nên tuyệt vọng, họ càng cần phải làm mất uy tín của các hệ thống cai trị khác và bôi nhọ các đối thủ dân chủ của họ. Chính vì lý do này mà Bắc Kinh và Mátxcơva đang tiến hành một cuộc chiến thông tin sai lệch toàn cầu nhằm khai thác và gia tăng sự mong manh của nền dân chủ Mỹ. Ở Trung Quốc và Nga, cuộc chiến thông tin sai lệch này nhằm mục đích ngăn chặn các yêu cầu cải cách dân chủ bằng cách làm nền dân chủ kiểu phương Tây mất uy tín. […]

Read more

 Nữ hoàng là người tốt nhất của chúng ta

Nữ hoàng là người tốt nhất của chúng ta Andrew Roberts   Sept. 9, 2022 9:40 am ET LGT: Nữ hoàng Elizabeth đệ nhị bang hà ngày 8 tháng 9 năm 2022 tại Lâu đài Balmoral, Scotland. Andrew Roberts, bình luận viên hoàng gia của đài NBC viết bài tưởng niệm Nữ hoàng. Bài này được đăng trên báo Wall Street Journal, ngày 9 tháng 9, 2002.   Người Anh chúng ta muốn tin rằng chúng ta có các đức tính nghĩa vụ, lễ phép, hài hước và khoan dung tiềm tàng trong DNA của dân tộc chúng ta. Có thể chúng ta có một chút tự lừa dối, và chắc chắn không phải lúc nào cũng đúng, nhưng nó là một nét nổi bật trong huyền thoại tự xác định bản sắc của dân tộc chúng ta.  Tuy nhiên, đối với một người Anh, điều đó thực sự đúng, và trong suốt 70 năm, chúng ta đã biết rằng nhờ những đức tính của nữ hoàng, chúng ta sẽ luôn tự hào về bà ở bất cứ nơi nào đến — và vì thế cũng tự hào về đất nước của chúng ta. Nữ hoàng là một gương mẫu tốt đẹp suốt đời cho hàng triệu người ở Anh, Khối thịnh vượng chung và trên toàn thế giới. Điều hoàn toàn chắc chắn là — bất cứ điều gì mà những người khác trong gia đình nữ hoàng có thể nói hoặc làm — bà sẽ không bao giờ làm chúng ta bẽ mặt trên thế giới, và luôn luôn thi hành nhiệm vụ của mình với mức độ chuyên nghiệp cao nhất và sự bình tĩnh không lay chuyển. Những đức tính đó khiến Nữ hoàng có quyền lực mềm tương đương với một hàng không mẫu hạm trong quan hệ quốc tế. Mặc dầu, các định chế quốc gia khác của chúng ta có thể khiến chúng ta thất vọng nhiều, nhưng chúng ta luôn biết rằng Nữ hoàng sẽ không bao giờ đi sai một bước hoặc nói một lời khiến chúng ta thấy khó nghe. Dưới con mắt soi mói của giới truyền thông toàn cầu trong bảy thập kỷ, trực tiếp gặp hàng trăm nghìn người và hiện diện trước hàng triệu người trong các sự kiện công cộng, đi đến hơn một trăm quốc gia trên thế giới, đối phó với những sự cố ngoại giao tế nhị mà ngày nay đã trở thành lịch sử nhưng vào thời điểm đó có thể đã gây ra xung đột, cố vấn cho 15 thủ tướng từ Winston Churchill đến Liz Truss, nữ hoàng biết mình phải làm gì. Cách xử sự đó có vẻ gần như siêu phàm nhưng chắc chắn đó là thành tích tuyệt đối của trình độ chuyên nghiệp. Liệu có nhiều nhà lãnh đạo trong cuộc sống công cộng của chúng ta có được một phần nhỏ vẻ duyên dáng, lôi cuốn của nữ hoàng và, trên tất cả, là cách ứng xử khéo léo của nữ hoàng không. Nữ hoàng có một kỹ xảo kỳ diệu là gói gọn […]

Read more

Một cuộc cách mạng để luôn luôn ghi nhớ nhưng không bao giờ kỷ niệm

Lawrence Reed LGT: Lawrence Reed viết bài này vào năm 2017 để đánh dấu 100 năm ngày Cách mạng Tháng Mười Nga—một cuộc cách mạng tàn bạo, phi nhân đáng kinh tởm nhất của nhân loại trong thế kỷ 20. Khi cuộc Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa Tháng Mười Vĩ đại đến ngày kỷ niệm một trăm năm, điều quan trọng là phải nhớ lại sự tàn phá mà nó đã gây ra. Thứ hai, ngày 16 tháng 10 năm 2017 Tuyên truyền của Liên Xô trước đây trong nhiều thập kỷ đã gọi nó là “Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa tháng Mười Vĩ đại”, sự kiện quan trọng đưa Vladimir Lenin lên nắm quyền và mở đầu cho bảy mươi bốn năm cầm quyền của Đảng Cộng sản. Hôm nay (Thứ hai, 16 tháng Mười, 2017) chúng ta sắp đến ngày kỷ niệm một trăm năm của cuộc cách mạng đó. Nó không phải là một ngày kỷ niệm mà bất cứ ai cũng nên kỷ niệm. Đối với những người chân chính ở khắp mọi nơi, thì không có gì về thảm kịch năm 1917 của nước Nga đáng để tưởng nhớ. Tuy nhiên, mọi thứ về cuộc cách mạng đó đều phải ghi nhớ — để rút ra những bài học quan trọng. Cuộc tàn sát tạo ra bởi hệ tư tưởng lên nắm quyền cách đây một thế kỷ có thể mãi mãi là một tội ác lớn nhất trong biên niên sử về sự sa đọa của con người. Nếu bạn không chắc hệ tư tưởng đó là gì hoặc gọi nó là gì, có lẽ bài viết này sẽ hữu ích. Trước đây 49 năm tôi trở thành một nhà hoạt động vì quyền tự do để phản đối cuộc xâm lược của Liên Xô vào Tiệp Khắc. Vì vậy, một phần vì lý do cá nhân, tôi không thể để cột mốc trăm năm này trôi qua mà không ghi nhận nó theo một cách nào đó. Các nạn nhân của chế độ Xô Viết và các chế độ chuyên chế khác mà nó sinh ra trong thế kỷ 20 lên tới con số 100 triệu, nhưng liệu có bài báo, cuốn sách hoặc bộ sưu tập đồ sộ nào về các chế độ chuyên chế đó có bao giờ ghi lại đầy đủ và trung thực những câu chuyện về sự đau đớn và hy sinh của các nạn nhân đó không?  Dĩ nhiên là không. Vì vậy, với sự hạn chế đó, tôi chọn để nhắc tới sự kiện này bằng cách nói với bạn một chút về chỉ hai người trong số 100 triệu đó. Tên của họ là Gareth Jones và Boris Kornfeld. __________ Gareth Richard Vaughan Jones sinh ra ở xứ Wales vào ngày 13 tháng 8 năm 1905. Cha mẹ ông đều là những nhà giáo dục trung lưu quyết tâm cho con trai của họ có được nền giáo dục tốt nhất có thể. Đến năm 25 tuổi, chàng trai trẻ Gareth đã có bằng tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Nga của Đại […]

Read more

Nghịch lý của sự đàn áp tại Trung quốc

Nghịch lý của sự đàn áp tại Trung quốc Lester R. Kurtz[1]  Chính quyền Trung quốc giống như tất cả các chính quyền khác đang lúng túng tìm cách đối phó với những kẻ thù của họ. Đây là một vấn đề cốt lõi mà tất cả các chính thể chuyên chế đều phải giải quyết. Việc Ủy ban Nobel trao giải thưởng Hòa bình cho Lưu Hiểu Ba rõ ràng được coi là một sự sỉ nhục đối với quyền lực của Trung quốc và đã đưa các người bất đồng chính kiến trong nước lên tầm mức quốc tế. Đối với một chế độ không cần phải đếm xỉa tới nguyện vọng của dân chúng thì không có gì bực mình hơn là thấy  bạn và những người bên ngoài vinh danh những người công dân của mình đã lên tiếng chống đối chế độ. Tội của ông Lưu là ông ấy là một nhân vật then chốt trong việc công bố Hiến chương 08 (2008) kêu gọi dân chủ hóa, mô phỏng theo Hiến chương 77 của Tiệp và Slovak và là màn giáo đầu cho cuộc Cách mạng Nhung đã khiến cho chính quyền Cộng sản của nước này bị lật đổ năm 1989. Đứng về phương diện của chính quyền chuyên chế, những người bất đồng chính kiến nội bộ rất có thể dễ giải quyết: bỏ vào tù, thủ tiêu họ, đầy họ biệt xứ hay xử án họ. Tuy nhiên không dễ mà có thể bịt miệng một ủy ban có uy tín như là Ủy ban Nobel chứ đừng nói là tới một tập thể mơ hồ mà người ta gọi là cộng đồng quốc tế. Lẽ dĩ nhiên đó là lý do tại sao giáo sư Lưu đã được trao giải thưởng. Thông điệp của ông đã được phóng đại một cách khiến cho những người trong nước không thể không để ý tới. Trong một thế giới đã thu hẹp như một làng thì những sự tranh chấp không thể nào ngưng ở trong biên giới của một nước. Nhà nước đã có những nỗ lực cô lập những người bất đồng ý kiến trong nước nhưng nỗ lực này luôn luôn thất bại và những nhà chống đối khôn khéo đã có những quan hệ tốt đối với giới truyền thông thế giới và những đồng minh then chốt ở ngoài nước. Minky Worden của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Thế giới đã ghi nhận rằng những chính sách mới đây của Trung quốc, nhằm đối phó với những người bất đồng ý kiến, là “giết gà dọa khỉ,” nói một cách khác gieo rắc sự sợ hãi để kẻ khác phải phục tùng bằng cách trừng phạt công khai một người để làm gương. Nạn nhân bị đưa ra làm vật tế thần trong trường hợp này là nhà tranh đấu cho nhân quyền Lưu Hiểu Ba. Trước kia ông là giáo sư văn chương tại Đại học Sư phạm tại Bắc kinh. Ông bị bắt giam năm 1989 sau khi đã ủng hộ cuộc biểu tình […]

Read more

Cuộc Khủng hoảng Dân chủ Toàn cầu

Larry Diamond Mở rộng dân chủ không có gì là tất yếu. Trong số các quốc gia có dân số trên một triệu, chỉ có 11 nước có chế độ dân chủ vào năm 1900, 20 nước dân chủ vào năm 1920 và 29 nước năm 1974. Chỉ trong một phần tư thế kỷ qua, dân chủ là chế độ chủ yếu trên thế giới. Đến năm 1993, lần đầu tiên trong lịch sử, số lượng nền dân chủ đã tăng vọt lên 77— trong đa số các quốc gia có ít nhất một triệu dân. Đến năm 2006, số quốc gia có chế dộ dân chủ đã tăng lên đến 86. Nhưng hiện nay chúng ta đang ở một thời điểm bấp bênh. Dân chủ đang phải trực diện với một cuộc khủng hoảng toàn cầu. Theo tổ chức phi lợi nhuận Freedom House, trong 12 năm quyền chính trị và quyền tự do dân sự liên tiếp bị xói mòn trên khắp thế giới.  Trong thập kỷ qua, một trong sáu nền dân chủ đã thất bại. Ngày nay chỉ có một đa số rất nhỏ các quốc gia lớn hơn trên thế giới vẫn còn có chế độ dân chủ. Các con số đó cũng không thể hiện hết mức độ nguy hiểm. Đằng sau số liệu thống kê có thể thấy sự xoi mòn của các thể chế và chuẩn mực dân chủ ở một số các quốc gia. Trung Quốc, Nga và những người ngưỡng mộ họ đang tiến nhanh theo một khuynh hướng toàn cầu mới, ca ngợi cai trị bằng lãnh tụ độc đoán—chứ không bằng chính quyền của người dân—để tiến lên trong những giai đoạn khó khăn. Cho đến gần đây, quyết tâm của Hoa Kỳ đã giúp kìm hãm những kẻ thù chính của nền dân chủ ngày nay: đó là Trung Quốc đầy tham vọng và đang trỗi dậy, Nga phẫn uất và suy tàn, và một làn sóng dân túy mới, các nhà độc tài từ Hungary đến Philippines. Tuy nhiên, hiện nay, sự suy thoái chính trị của chính nước Mỹ ngày càng trầm trọng. Tổng thống Donald Trump đã xúc phạm các đồng minh của Hoa Kỳ, kết bạn với Vladimir Putin, miễn chê trách một số các nhà độc tài ghê gớm khác, ủng hộ các phong trào và chính trị bài ngoại, và làm lung lay trật tự tự do của thời kỳ sau Thế chiến thứ hai. Nhưng vấn đề này cũng bao gồm các chính trị gia hoài nghi trong cả hai đảng, các hệ thống cứng nhắc không phục vụ dân sinh và những công dân tự mãn không thèm đi bỏ phiếu. Tất cả những điều này đang làm lu mờ ánh sáng bóng bảy của nền dân chủ—và kéo nước Mỹ ra khỏi thế giới. Nếu chúng ta không sớm đảo ngược sự rút lui này của Hoa Kỳ, nền dân chủ trên toàn thế giới sẽ lâm nguy.  Như nhà khoa học chính trị quá cố của đại học Harvard, Samuel Huntington, đã giải thích, sự thay đổi […]

Read more

Tại sao nền dân chủ Mỹ đang ở trong tình trạng nguy hiểm?

Eric Schoon và Corey Pech Hoa Kỳ là một nền dân chủ có khuyết điểm. Đây không phải là một nhận định chủ quan, mà là một đánh giá do Chỉ số Dân chủ hàng năm của tạp chí Economist ấn định cho Hoa Kỳ. Việc hạ cấp từ “dân chủ hoàn toàn” là đỉnh điểm của một thập kỷ sụt giảm xếp hạng, đưa Hoa Kỳ ra khỏi bảng xếp hạng bao gồm Úc, Canada và Vương quốc Anh và đưa Mỹ vào nhóm ngang hàng với Ấn Độ, Botswana và Chile. Trong nhiều thập kỷ sau những thành công của phong trào dân quyền và việc thông qua Đạo luật Quyền Bầu cử năm 1965, Hoa Kỳ đã có những thành phần cơ bản mà hầu hết các nhà phân tích cho là cần thiết cho một nền dân chủ vận hành tốt. Tuy nhiên, các tổ chức theo dõi mức độ dân chủ trên khắp thế giới nhận thấy rằng những thành phần này đang giảm dần ở Hoa Kỳ. Để hiểu tại sao nền dân chủ của Mỹ đang suy giảm, chúng ta nên tập trung vào các sự kiện gần đây, chẳng hạn như cuộc suy thoái năm 2008 hoặc các đề án từ tiểu bang nhằm hạn chế quyền bầu cử. Nhưng làm như vậy có nguy cơ nhầm lẫn các triệu chứng của vấn đề với nguyên nhân của nó. Để đi sâu vào những nguyên nhân thực sự dẫn đến sự suy giảm của nước Mỹ, chúng ta nên xem xét những điều kiện đã góp phần vào sự sụp đổ của các nền dân chủ trong lịch sử. Trên thực tế, thời điểm hiện tại của chúng ta có những điểm tương đồng nổi bật với châu Âu trước Thế chiến thứ hai, khi số lượng các nền dân chủ cũng đang thu hẹp lại thay vì tăng lên. Năm 1959, Seymour Martin Lipset, một trong những nhà lý thuyết nổi bật nhất của thế kỷ 20 về dân chủ, đã xác định hai yếu tố chính rất quan trọng để giải thích sự khác biệt giữa các nền dân chủ ổn định và không ổn định trong thời kỳ này: phát triển kinh tế và tính hợp pháp chính trị. Khi làm như vậy, Lipset đã ngầm thách thức một số giả định cơ bản mà những “Quốc Phụ”đã đưa ra khi thành lập chính quyền Hoa Kỳ. Trong Luận cương Liên bang số 10, James Madison đã xác định sự cai trị của đám đông[1] và sự xuất hiện của các phe phái chính trị là nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại của nền dân chủ, và do đó, những người xây dựng Hiến pháp Hoa Kỳ đã cố gắng hạn chế quyền lực của các phe phái bằng cách thiết lập các phương thức kiểm soát và cân bằng trong hệ thống chính trị. Nhưng Lipset tin rằng những biện pháp này không đủ để ngăn chặn sự phân hóa và cai trị của đám đông. Ông cho rằng các phe phái mạnh sẽ thắng thế khi […]

Read more

Đảng đã thất bại

Một người trong Đảng đoạn tuyệt với Bắc Kinh Cai Xia (Thái Hà) là một nhà bất đồng chính kiến và học giả về lý luận chính trị của Trung Quốc. Bà đã giảng dạy cho các thành viên và quan chức cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), bao gồm các các người lãnh đạo cấp tỉnh và thành phố và các bộ trưởng, đồng thời là giáo sư đã nghỉ hưu của Trường Đảng Trung ương ĐCSTQ. Bà là người ủng hộ tự do hóa chính trị ở Trung Quốc và là người chỉ trích Tổng Bí thư ĐCSTQ Tập Cận Bình. Bà bị khai trừ khỏi ĐCSTQ vào tháng 8 năm 2020 vì đã chỉ trích ĐCSTQ dưới sự cai trị của ông Tập. Từ năm 2019, bà đã sống lưu vong ở Hoa Kỳ.   KHI TẬP CẬN BÌNH LÊN CẦM QUYỀN VÀO NĂM 2012, tôi tràn đầy hy vọng cho Trung Quốc. Là giáo sư tại trường danh tiếng đào tạo các nhà lãnh đạo hàng đầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), tôi đủ hiểu biết về lịch sử để kết luận rằng đã quá muộn để Trung Quốc cải cách hệ thống chính trị. Sau một thập kỷ trì trệ, ĐCSTQ cần cải cách hơn bao giờ hết, và ông Tập, người từng tỏ ý có khuynh hướng cải tổ, có thể là người sẽ đi tiên phong trong công cuộc đó . Vào lúc đó, tôi đang ở giữa một giai đoạn kéo dài hàng thập kỷ vật lộn với ý thức hệ chính thống của Trung Quốc, ngay cả khi tôi đang phụ trách việc giáo hoá tư tưởng đào tạo huấn luyện cho các quan chức trong Đảng. Từng là một người nhiệt thành theo chủ nghĩa Marx, tôi đã từ bỏ chủ nghĩa Marx và ngày càng hướng tới tư tưởng Tây phương để tìm câu trả lời cho các vấn đề của Trung Quốc. Từng là một người tự hào bảo vệ chính sách chính thống, tôi bắt đầu nghiêng về tự do hóa. Từng là một đảng viên trung thành của ĐCSTQ, tôi đã âm thầm nghi ngờ sự chân thành của niềm tin của người dân đối với Đảng và sự quan tâm của Đảng đối với người dân Trung Quốc. Vì vậy, đáng lẽ tôi không ngạc nhiên khi thấy ông Tập không phải là nhà cải cách. Trong suốt nhiệm kỳ của ông, chế độ đã thoái hóa sâu hơn thành một chế độ quả đầu chính trị [cai trị bởi một nhóm người]nhằm nắm quyền lực bằng bạo lực và tàn nhẫn. Chế độ còn trở nên áp bức và độc tài hơn. Tệ nạn sùng bái cá nhân bao quanh ông Tập, người đã gia tăng sự kìm kẹp của Đảng đối với ý thức hệ và lãnh vực chật hẹp còn lại dành cho thảo luận chính trị và xã hội dân sự. Những người không sống ở Trung Quốc đại lục trong tám năm qua khó có thể hiểu được chế độ này đã trở nên tàn […]

Read more