fbpx

Search Results for: Luận cương 11

Chính quyền Đại biểu và Dân Chủ

Bo LI Perspectives, Vol. 1, No. 3   Trong bài tiểu luận đầu tiên của loạt bài này, tôi đã viết rằng có bốn nguồn ảnh hưởng đến sự phát triển của ý tưởng và thể chế dân chủ: nền dân chủ Hy Lạp cổ điển, truyền thống cộng hòa, lý thuyết và thực tiễn của chính quyền đại biểu, và logic của bình đẳng chính trị. Trọng tâm của tiểu luận này là lý thuyết và thực hành của chính quyền đại biểu và các mối quan hệ của nó với nền dân chủ. Trong hơn hai nghìn năm trước thế kỷ 17, ý tưởng về một nền dân chủ đại biểu chưa bao giờ được kcác nhà nghiên cứu và những người thực hành chính trị tìm hiểu. Ở chính thể Hy Lạp cổ đại, không cần phải lo lắng về vấn đề đại biểu bởi vì, với quy mô nhỏ của chính thể, về nguyên tắc, mọi công dân đều có thể tham gia trực tiếp vào các cuộc tranh luận và ra quyết định công khai. Thật vậy, các nhà dân chủ Hy Lạp sẽ ghét sự đại diện vì nó có thể đã vi phạm sự hiểu biết của họ về nền dân chủ. Một trường hợp khó hiểu hơn là đế quốc La Mã. Mặc dù đế quốc La Mã đã mở rộng ra một lãnh thổ rộng lớn, nhưng các nước cộng hòa La Mã không bao giờ quan tâm đến thực tế về sự tham gia chính trị của những công dân sống xa La Mã, nơi quốc hội họp thường xuyên. Trên thực tế, hầu hết các công dân của đế quốc La Mã có lẽ không bao giờ tham dự hội nghị, và hoàn cảnh đã vô hình trung tạo ra một hệ thống đại biểu—những người sống gần La Mã trên thực tế trở thành “đại biểu” của các công dân khác của đế quốc La Mã. Sau đó, các thành bang ở Ý thời Phục hưng, một lần nữa với quy mô nhỏ, cũng không nhận thấy sự cần thiết của một hệ thống chính quyền đại biểu. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là trước sự tồn tại của các chế độ dân chủ hoặc cộng hòa lớn (chẳng hạn như đế quốc La Mã) trong lịch sử nhân loại, ý tưởng và thể chế chính quyền đại biểu hoàn toàn thoát khỏi suy nghĩ của các chính trị gia và triết gia chính trị. Thật vậy, không chỉ thiếu hiểu biết về thể chế của chính quyền đại biểu, mà còn có trong học giới dân chủ một tâm lý cho rằng một hệ thống chính quyền đại biểu là không dân chủ và do đó không phải là một sắp xếp [cơ cấu] chính trị tốt. Ngay cả trong thế kỷ 18, đã có những lập luận cực đoan chống lại chính quyền đại biểu. Ví dụ, Rousseau lập luận trong “Khế ước xã hội” rằng sự đại diện là không thể chấp nhận được bởi vì “chủ quyền không thể được đại diện vì […]

Read more

Mười đạo luật có ảnh hưởng sâu xa đến nước Mỹ

Louis Jacobson   Trong 50 năm qua,[1] Quốc hội đã thông qua khoảng 28.000 đạo luật. Nhưng chỉ một số nhỏ trong số đó có ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của người Mỹ. Nhằm lựa ra 10 điều luật quan trọng nhất trong suốt nửa thế kỷ qua, chúng tôi đã tìm kiếm những điều luật định hình đáng kể nhất quá trình tương lai của quốc gia, cho dù tốt hơn hay xấu hơn. Chính sách đối nội và đối ngoại đều được đánh giá như nhau, và chúng tôi không phân biệt xem biện pháp đó là một đạo luật, một nghị quyết hay sự phê chuẩn một hiệp ước. (Tuy nhiên, chúng tôi đã loại trừ quyết định về những người được bổ nhiệm.) Ngoài ra, chúng tôi đánh giá cao sự đa dạng để danh sách sẽ không tràn ngập các đạo luật có cùng một chủ đề chung. Để thu thập ý tưởng, chúng tôi đã tham khảo ý kiến của một hội đồng gồm các học giả lừng danh về Quốc hội: Joel Aberbach của Đại học California tại Los Angeles, Scott Adler của Đại học Colorado, David Boaz của Viện Cato, David Brady và Morris Fiorina của Viện Hoover,  Lee Edwards của Quỹ Di sản, Allan Lichtman của Đại học Hoa Kỳ, Burdett Loomis của Đại học Kansas, David Mayhew của Đại học Yale, Bert Rockman của Đại học Ohio, Steven Smith của Đại học Washington, Rick Striner của Đại học Washington, James Thurber của Đại học Hoa Kỳ và Eric Uslaner của Đại học Maryland. Sau khi chọn lọc thông qua các đề cử của các học giả này, chúng tôi đã quyết định những luật nào sẽ nằm trong tốp 10 đạo luật đứng đầu. Chúng tôi cũng bổ sung một số ứng viên xém bị bỏ sót. Khi việc này xảy ra, các học giả, mặc dù họ làm việc độc lập với nhau, đã đạt được sự nhất trí rõ ràng về 5 điều luật đứng hàng đầu. Ngoài ra, chúng khác nhau một cách dữ dội—vì vậy đối với các giải pháp còn lại trong danh sách của chúng tôi, chúng tôi đã áp dụng phán đoán của riêng mình. Mặc dù đó không phải là ý định của chúng tôi, nhưng tốp 10 và á quân cùng có ít nhất một giải pháp được mọi tổng thống ký kể từ năm 1955, ngoại trừ tổng thống Gerald Ford. Cũng có sự phân chia gần như cân bằng giữa các giải pháp do các tổng thống thuộc Đảng Cộng hòa và Dân chủ ký. Và đây là danh sách: Đạo luật Quyền Công dân (Civil Rights Act,1964). Hầu như mọi học giả, tự do và bảo thủ, đều xếp đạo luật này đầu tiên trong danh sách của họ. Ta không thể nghi ngờ ảnh hưởng của đạo luật này: Xuất hiện sau một thập kỷ đấu tranh dân quyền ở miền Nam và sau vụ ám sát Tổng thống John F.Kennedy, đạo luật gây tranh cãi sôi nổi này đã chấm dứt một cách có […]

Read more

Tiến sĩ Nông Duy Trường

Ông Nông Duy Trường là một nhà hoạt động trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại Houston trong 30 năm qua. Ông là một trong những sáng lập viên của Nhóm Sinh hoạt Thế Hệ (VAYO) năm 1990. Ông hiện là Giám Đốc Điều Hành của HVCD…

Read more

Thái Hà – Cựu Giáo sư trường Đảng TW Đảng CSTQ Gọi Đảng CSTQ là Thây ma Chính trị

Đảng CSTQ Là Thây ma Chính trị LGT: Cài Xía (蔡霞 – Thái Hà) là Giáo sư Hồi hưu của Trường Đảng Trung ương, người đã lập luận cho việc bảo vệ quyền cá nhân theo luật pháp và cải cách nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Một trong những nhà phê bình gay gắt nhất về Tập Cận Bình, bà đã bị chính thức khai trừ khỏi Đảng vào tháng 8 năm 2020, sau khi tiết lộ bài phát biểu trực tuyến trong đó bà gọi ĐCSTQ là “một thây ma chính trị” Khoảng 20 phút đoạn băng ghi âm – trong đó một giáo sư Trường Đảng Trung ương đã nghỉ hưu chỉ trích nghiêm khắc tình trạng của Đảng dưới thời Tập Cận Bình, và tuyên bố chế độ hiện tại không thể sửa chữa được nữa,[1] – đã được lưu hành rộng rãi trên mạng vào đầu tháng này [tháng 8, 2020]. Đoạn ghi âm là bài nói chuyện trực tuyến với một nhóm tư nhân của Cài Xiá  [Thái Hà], một học giả về luật và là đảng viên thâm niên trong Đảng, đã từng cổ võ cho nhân quyền và pháp quyền. [Cập nhật: CDT (China Digital Times) được biết cuộc nói chuyện này đã được đưa ra vào giữa tháng 5]. Giáo sư Cài Xiá  hiện đang ở bên ngoài Trung Quốc. CDT đã xác định đoạn ghi âm là xác thực. Bài phát biểu đã được CDT dịch toàn bộ sang Anh ngữ. Không trực tiếp nêu tên ông ta, bài phát biểu của Cài đã lên án gay gắt sự cai trị độc đoán của Tập Cận Bình đối với Đảng và đất nước, đồng thời đổ lỗi cho ông ta vì đã biến ĐCSTQ thành một “thây ma chính trị.” Cài được biết đến về các chỉ trích của bà đối với các hành động vi phạm pháp luật của nhà chức trách và đàn áp quyền cá nhân. Vào năm 2016, Cài đã biện hộ cho doanh nhân và nhà phê bình Đảng Ren Zhiqiang (Nhậm Chí Cường) sau khi ông bị trục xuất khỏi mạng xã hội vì đả kích sự thống trị của ông Tập đối với truyền thông. Vào tháng 3 năm nay, sau khi một tài liệu chỉ trích phản ứng của ông Tập đối với dịch COVID-19 mà người ta nói ông Nhậm đã chỉ chia sẻ với một vài người nhưng lại được lan truyền rộng rãi trên mạng, ông Nhậm đã mất tích gần một tháng. Sau đó người ta được biết là ông ta đang bị điều tra bởi các cơ quan kỷ luật của ĐCSTQ. *** Hai vấn đề chính – những vấn đề mà chúng ta phải tìm hiểu từ gốc rễ – có thể giúp giải thích làm sao chúng ta đã đến tình trạng hiện tại. Vấn đề thứ nhất là chế độ của chúng ta, và vấn đề thứ hai là lý thuyết của chúng ta. Từ quan điểm của hệ thống, Xueqin [sử gia Zhu Xueqin – Chu Học Cần] đã nói cách đây […]

Read more

Quyền Lực Mềm

(Trích từ SOFT POWER của Joseph Nye, 2004) Mọi người đều quen thuộc với quyền lực cứng. Chúng ta biết rằng quân sự và kinh tế có thể thường khiến người khác thay đổi lập trường của họ. Quyền lực cứng có thể dựa vào các khuyến dụ (“cà rốt”) hoặc các đe dọa (“gậy”). Nhưng đôi khi có thể nhận được kết quả ta muốn mà không có đe dọa hoặc mua chuộc cụ thể. Cách gián tiếp để có được những gì ta muốn đôi khi được gọi là “bộ mặt quyền lực thứ hai.” Một quốc gia có thể đạt được kết quả mà họ muốn trong chính trị thế giới vì được các quốc gia khác ngưỡng mộ các giá trị của nó, theo gương nó, khao khát mức độ thịnh vượng và cởi mở của nó – muốn theo nó. Theo nghĩa này, điều quan trọng là phải lập ra một bài bản thu hút những người khác trong chính trị thế giới, và không chỉ buộc họ phải thay đổi bằng đe dọa quân sự hoặc các biện pháp trừng phạt kinh tế. Quyền lực mềm này – làm người khác muốn có kết quả mà ta muốn – khiến người ta theo mình thay vì ép buộc họ. Quyền lực mềm dựa vào khả năng định hướng sở thích của người khác. Ở cấp độ cá nhân, tất cả chúng ta đều quen thuộc với quyền lực của sự hấp dẫn và quyến rũ. Trong một mối quan hệ hoặc một cuộc hôn nhân, quyền lực không nhất thiết phải nằm trong đối tác lớn hơn, mà là trong sự hấp dẫn hóa học bí ẩn. Trong thế giới kinh doanh, các giám đốc điều hành thông minh biết rằng lãnh đạo không chỉ là vấn đề ban hành các mệnh lệnh, mà còn liên quan đến việc dẫn dắt bằng cách làm gương và lôi kéo người khác làm những gì mình muốn. Thật khó điều hành một tổ chức lớn chỉ bằng ra lệnh. Ta cũng cần phải khiến người khác chia sẻ cùng giá trị của mình. Tương tự như vậy, các hoạt động hiện đại trong việc trị an dựa vào cộng đồng chú trọng vào việc làm cho cảnh sát thân thiện khiến cho cộng đồng muốn giúp đỡ họ đạt được mục tiêu chung. Các nhà lãnh đạo chính trị từ lâu đã hiểu được quyền lực đến từ sự lôi cuốn. Nếu tôi có thể khiến bạn muốn làm những gì tôi muốn, thì tôi không phải sử dụng cà rốt hay gậy để bắt bạn làm điều đó. Trong khi các nhà lãnh đạo ở các nước độc tài có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế và ra lệnh thì các chính trị gia ở các nền dân chủ phải phụ thuộc nhiều hơn vào sự kết hợp giữa sự khuyến dụ và thu hút. Quyền lực mềm là một yếu tố chính của chính trị dân chủ hàng ngày. Khả năng tạo ra sở thích có xu hướng gắn liền với các […]

Read more

Trung quốc đối đầu với sự cạnh tranh sắp tới với Mỹ, đối phó với Coronavirus, và nhược điểm của Tập Cận Bình

LGT: Minxin Pei (Bùi Mẫn Hân) là Giáo sư Chính trị tại Đại học Claremont McKenna. Bài phân tích này là một phần của dự án của Trung tâm John W. Kluger thuộc Thư viện Quốc hội và được tài trợ bởi Công ty Carnegy tại New York.  Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.   Trong vòng vài năm qua, chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung quốc đã chuyển sang hướng cứng rắn, cộng với sự cân bằng giữa hợp tác và cạnh tranh trong quan hệ Mỹ-Hoa nghiêng hẳn về phía cạnh tranh. Hầu hết những nhà thiết lập chính sách và bình luận của Mỹ đều xem chiến lược đối đầu mới này là một phản ứng trước sự gia tăng khẳng định vị thế của Trung quốc, được thể hiện một cách đặc biệt qua nhân vật đang được dư luận quan tâm, đó là Chủ tịch Tập Cận Bình.[1] [Mặc dù] nước Mỹ có những phương tiện hạn chế trong việc tạo ảnh hưởng đến hệ thống chính trị đóng kín của Trung quốc, nhưng những áp lực ngoại giao, kinh tế, và quân sự mà Washington có thể áp đặt lên Bắc Kinh sẽ khiến cho Tập Cận Bình và đảng Cộng sản Trung quốc (CSTQ) do Tập lãnh đạo một sự căng thẳng lớn lao. Thật vậy, một giai đoạn đối đầu chiến lược kéo dài với Mỹ, như giai đoạn hiện nay, sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho những thay đổi lớn có tính chất bất ngờ tại Trung quốc. Khi căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc gia tăng, đã có những cuộc tranh luận gay gắt về những điểm tương đồng và, có lẽ quan trọng hơn, sự khác biệt giữa cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện nay và cạnh tranh giữa Mỹ-Nga trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Dù sự so sánh này có những giới hạn nào đi chăng nữa, các nhà lãnh đạo Trung quốc đã suy nghĩ rất cặn kẽ về những bài học của Chiến tranh Lạnh và sự sụp đổ của Liên-xô. Trớ trêu thay, Bắc Kinh cũng có thể lập lại những sai lầm hệ trọng của chế độ Xô-viết. Suốt trong cuộc cạnh tranh trải qua nhiều thập kỷ của Chiến tranh Lạnh, sự cứng nhắc của chế độ Xô-viết và của cả những người lãnh đạo chế độ đó đã được xem là lợi điểm đáng giá nhất của Mỹ. [Sự cứng nhắc đó là] Kremlin tiếp tục gia tăng nỗ lực vào những chiến lược đã thất bại—bám víu vào một hệ thống kinh tế đang dãy chết, theo đuổi cuộc chạy đua vũ trang làm cho phá sản, và duy trì một đế quốc toàn cầu quá khả năng—thay vì chấp nhận những sự mất mát mà những cuộc cải cách triệt để có thể tạo ra. Những người lãnh đạo Trung quốc cũng bị bó buộc trong sự cứng ngắc của chính hệ thống của họ và, do đó, hạn chế khả năng chỉnh sửa những […]

Read more

Bức tường Bá-linh và Tinh thần Tự do

Richard Ebeling LGT. Tác giả Richard Ebeling viết bài này vào tháng 11 năm 2014, kỷ niệm 25 năm ngày Bức tường Bá-linh sụp đổ. Năm nay, cũng vào tháng 11, là tháng kỷ niệm 30 năm biến cố Bá-linh, ICEVN giới thiệu bài này cũng là dịp để chúng ta ôn cố tri tân. Tháng 11 năm nay đánh dấu ngày kỷ niệm thứ 25 sự sụp đổ của Bức tường Bá-linh. Ngày 9 tháng 11 năm 1989 khi chính quyền lung lay của cộng sản Đông Đức sụp đổ, Bức tường Bá-linh cũng sụp đổ theo. Những đám đông người tụ tập hai bên bờ tường. Những người dân Đông và Tây Bá-linh leo lên trên bờ tường, và người ta dùng búa tạ và cuốc chim đục thủng Bức tường. Người ta bắt đầu di chuyển tới lui qua Bức tường, thể hiện tinh thần của một sự tự do di chuyển mà không bị những hàng rào chính trị cản lối. Ôn lại lý do tại sao Bức tường được dựng lên và như thế nào từ lúc bắt đầu, cũng như tìm hiểu ý nghĩa của cuộc đấu tranh vĩ đại giữa tự do và chuyên chế trong dòng chảy của những biến cố lịch sử của thế kỷ 20, là một việc nên làm. Phong toả Con người Đằng sau Bức tường Chuyên chế Ngày 10 tháng Tám, 1961, Nikita S. Khrushchev, Thủ tướng Liên Xô, đến dự buổi tiệc sinh nhật của Thống chế Sergei S. Verentsov tại Moscow. Verentsov là vị chỉ huy chương trình hoả tiễn của Liên Xô-viết. Trong bữa tiệc này Khrushchev thông báo cho những người khách, toàn là những nhân vật tai to mặt lớn của bộ máy chính trị và quân sự hiện diện, là một sự kiện trọng yếu sắp sửa xảy ra. Khrushchev tuyên bố, “Chúng ta đang đóng cửa thành phố Bá-linh.” “Chúng ta vừa mới dăng những hàng rào dây kẽm gai và Tây phương chỉ còn biết đứng như những con cừu mà nhìn. Và khi chúng đứng đực ra như thế, chúng ta sẽ hoàn tất Bức tường.” Cử toạ hoan hô, vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt. Thành phố Bá-linh bị chia thành bốn vùng chiếm đóng của quân Đồng Minh khi Đệ nhị Thế chiến chấm dứt tại Âu châu. Nửa phía đông của thành phố thuộc vùng Xô-viết. Nửa phía tây được chia thành ba vùng: Mỹ, Anh, và Pháp, bao bọc chung quanh là vùng Xô-viết chiếm đóng ở Đông Đức.[1] Vùng chiếm đóng gần nhất với Bá-linh thuộc Anh hay Mỹ cách xa 177 km về phía tây. Xô-viết đã thiết lập một nước “cộng hoà nhân dân” trong vùng chiếm đóng của mình—nước Cộng hoà Dân chủ Đức với Đông Bá-linh là thủ đô. Trong khoảng cuối thập niên 1940 cho đến 1961, hơn 4 triệu người dân Đông Đức và Đông Bá-linh đã lợi dụng tình trạng khá dễ dãi để vượt khỏi vùng Xô-viết ở Bá-linh sang một trong những vùng thuộc Tây phương; họ đã “bỏ phiếu bằng chân” từ bỏ […]

Read more

Chính trị đang tiêu diệt Xã hội Dân sự–Nhưng Lòng Biết ơn Có thể Cứu Chúng ta

Thực hành lòng biết ơn là vun trồng hạt giống của xã hội dân sự Barry Brownstein Jonah Goldberg, trong cuốn sách Sự tự sát của Tây phương: Sự Tái sinh của của chủ nghĩa Bộ lac, Dân tuý, Quốc gia, và Căn cước Chính trị đang tiêu diệt nền Dân chủ của Mỹ, đã cảnh báo: Xã hội dân sự dường như đang bị suy tàn. Người ta đang mất dần sự kính trọng đối với những điều kiện giúp cho con người phát triển. Goldberg, một nhà bỉnh bút của tạp chí National Review, định nghĩa xã hội dân sự là “một hệ sinh thái xã hội bao la—gia đình, học đường, nhà thờ, chùa chiền, hội đoàn, thể thao, doanh nghiệp, những cộng đồng địa phương, vân vân—làm trung gian cho đời sống giữa nhà nước và cá nhân.” Goldber nói thêm, “Một xã hội dân sự khoẻ mạnh, chứ không phải nhà nước, làm cho con người trở nên văn minh.” Theo nghiên cứu của hai giáo sư khoa học chính trị Shanto Iyengar và Sean Westwood, chính trị đảng phái đang hướng dẫn ý thức của người dân Mỹ. Weswood là một giáo sư đang dạy tại Đại học Dartmouth, nói với báo New York Times, “Tinh thần đảng phái, qua một thời gian dài, không được xem là một phần tử xác định ta là ai. Nó không phải là cốt lõi của căn cước của chúng ta. Nó chỉ là một phần phụ của căn cước đó. Nhưng trong thời hiện đại ngày nay, chúng ta xem căn cước đảng phái như một điều giống như giới tính, sắc tộc hay chủng tộc—những đặc tính cốt lõi mà ta dùng để miêu tả mình với người khác.” Amanda Taub tóm lược những kết quả nghiên cứu của Iyengar và Weswood như sau: “Ngày nay, chính trị đảng phái không còn là [bầu ra những người] mà sẽ cai trị theo ý chúng ta muốn nữa. Họ đã trở thành một đội [banh] ta ủng hộ, và một bộ lạc mà ta cảm thấy là một thành viên.” Khi một đảng chính trị là bộ lạc của ta, Goldberg nhận định, “Công dân của California và New York cũng dính vào những cuộc đấu đá đảng phái ở North Carolina hay Indiana như thể đó là những cuộc đụng độ trong một cuộc chiến lớn hơn.” Mạng truyền thông xã hội phóng đại chủ nghĩa bộ lạc. Như Goldberg nêu rõ: “Cái nhận thức bộ lạc, đối đầu giữa ta và nó, đang được mạng xã hội làm tăng cường độ, trong cái môi trường mà ta dễ tìm những người đồng-cảm nhưng chỉ là bạn “ảo” ở cách ngàn dặm hơn là chuyện trò thực sự với người hàng xóm của mình.” Tuy nhiên, Goldberg cũng nhắc ta rằng, “Gia đình, tình bạn, tôn giáo và xã hội dân sự—đó mới là những phương tiện duy nhất mang ý nghĩa tương đồng với một xã hội tự do. Bất kỳ một vị thần nào do nhà nước đẻ ra rốt cuộc chỉ là […]

Read more

Người cứu nước Nga thoát khỏi Liên bang Xô-viết

Lawrence Reed & Yuri Maltsev  Đã đến lúc trả lại đúng vị thế cho một nhân vật quan trọng trong lịch sử nước Nga cận đại—Alexander Nikolaevich Yakovlev. Là một nhân vật hàng đầu trong những năm cuối cùng của chính quyền Xô-viết, Yakovlev khởi đầu sự nghiệp bằng cách tham gia quân đội và trở thành một sĩ quan của Hồng quân và trở thành đảng viên đảng Cộng sản, nhưng cuối cùng lại trở thành một kẻ tận tuỵ và hữu hiệu trong sự chống lại sự bạo ngược của chế độ Xô-viết. Yakovlev sẽ được người đời nhớ đến là kiến trúc sư chính của “đổi mới” (perestroika) trong những năm cuối thập niên 1980 cùng những hệ quả của nó: vạch trần những lời dối trá và tội ác tàn bạo của chế độ tội phạm Xô-viết và cái chết tất yếu của Cộng hoà Liên bang Xô-viết (USSR). Trong suốt cuộc đời, Yakovlev tự bản chất là người theo chủ nghĩa tự do cổ điển mà phải sống trong một trong những xã hội phi tự do, hẹp hòi, bần tiện, và tập trung nhất trong lịch sử. Ông không hề bị ảnh hưởng bởi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa hay chủ nghĩa quốc gia kiểu Nga. Trong suốt thập niên 1980 đầy xáo trộn, thập niên đỉnh điểm và cuối cùng của Liên Xô, Yakovlev là uỷ viên Bộ Chính trị, nhân vật thứ hai sau Gorbachev, người mà có lẽ chỉ đáng là học trò của ông hơn là lãnh tụ. Với chức vụ trưởng ban tư tưởng, Yakovlev được gọi bằng nhiều tên khác nhau bên cạnh danh hiệu “kiến trúc sư của đổi mới” như “Bố già của Cởi mở (glasnost),” “người giật dây Gorbachev,” “Trưởng ban Phản bội,” “Điệp viên CIA.” “Kẻ chống Xô-viết cuồng loạn,” “Kẻ thù của nhân dân,” và “Satan của tư bản,” tuỳ theo kẻ gọi thuộc phe nào. Thiếu thời Yakovlev sinh năm 1923 trong một gia đình nông dân ở một ngôi làng nhỏ bên bờ sông Volga gần thành phố cổ Yaroslavl. Cậu bé Alexander quá quen thuộc với sự khổ sở của đời sống Xô-viết trong suốt và sau thời kỳ diệt chủng mang cái tên “tập thể hoá” nông dân. Từ năm 1929 đến 1932, hơn 30 triệu nông dân người Ukraine, Byelorussian, và cả người Nga bị bỏ đói cho tới chết, bị đày đi Siberia, hay bị Stalin, hay những kỹ sư xã hội hoặc lính của y giết ngay tại chỗ. Yakovlev không bao giờ quên được những hình ảnh đau khổ, lưu đầy, giết chóc, và tra tấn. Nhưng, Yakovlev có làm được gì đâu. Một tháng sau khi Yakovlev tốt nghiệp trung học, Thế chiến II bắt đầu, và chàng lập tức bị động viên vào Hồng quân. Yakovlev kể lại: Ngay cả lúc đó, ở lứa tuổi đôi mươi, tôi đã nhận ra rằng tôi chỉ là bia đỡ đạn ngoài tiền tuyến. Tất cả những đồng chí, sĩ quan trẻ của tôi đều nghĩ vậy. Chúng tôi giấu đi thân phận của […]

Read more

Tinh thần trách nhiệm là thuốc giải độc chế độ chuyên chế

Sự khôn ngoan vượt thời gian của tiểu thuyết “Quần Đảo Ngục Tù” của Aleksandr Solzhenitsyn Surit Dasgupta Cuộc sống đầy rẫy đau khổ. Niềm đau đó sẽ bị nhân lên gấp bội bởi giòng ác tâm vô tận. Chính tôi đang trải nghiệm ra điều này khi ở bên gường bệnh của mẹ tôi, người đang là nạn nhân của bạo lực. Đó là hành động xấu xa, ma quỷ xảy ra cho người vô tội đã tàn phá chúng ta nhất; hành động này có thể xảy ra cho bất cứ ai. Bản chất độc đoán của sự ác không thể từ chối. Nó hiển nhiên và không thiếu các ví dụ xảy ra trong cuộc sống. Khi thừa nhận thực tế này, câu hỏi mà mỗi chúng ta nên tự hỏi là con người phải đối diện và xử sự thế nào với điều ác? Khi ngồi bên cạnh người mẹ đang nằm bất tỉnh của mình, tôi đã đọc cuốn “Quần Đảo Ngục Tù” (The Gulag Archipelago) của Aleksandr Solzhenitsyn, một tiểu thuyết lớn đã đoạt giải Nobel văn học viết bởi một nhà bất đồng chính kiến ​​người Nga từng bị tù đầy đau đớn dưới tay nhà cầm quyền Cộng sản tàn bạo. Là người lính Hồng quân trong Thế chiến thứ Hai, ông chứng kiến ​​tận mắt sự tàn bạo của Hồng quân Sô Viết với thường dân Đức và Đông Âu. Hình ảnh cướp bóc và hãm hiếp thường dân của đồng đội là vết nứt đầu tiên trong ảo tưởng ôm ấp từ lâu của Solzhenitsyn về các nhà lãnh đạo tổ quốc của mình. Không lâu sau đó, ông bị bắt và giam giữ tại nhiều trại lao động khổ sai. Ông bị kết tội chỉ trích Stalin trong lá thư viết cho người bạn cùng lớp; cái tội đã khoác cho ông án tù mười một (11) năm. Trong khi thi hành án lệnh, ông đã nếm đủ mùi đau khổ như con thú thấp hèn, lao động quần quật vô giới hạn, chui rúc tìm cái ăn từ những mảnh vụn ít ỏi người ta vứt bỏ, và chẳng giữ được chút hơi ấm nào trong địa ngục giá lạnh nhất trần gian. Muốn tìm sự thật, hãy tự soi mình. Solzhenitsyn có đủ lý lẽ để thù ghét những kẻ giam giữ mình. Ông cũng có mọi lý do để biện minh cho mình nếu chỉ mong tìm cách trả thù những kẻ hãm hại ông. Sau tất cả, ông là người vô tội bị kết án oanvì nói thật. Nhưng ông chọn cách cư xử vượt qua não trạng của một nạn nhân bằng cách tự vấn lương tâm. Ông suy ngẫm về cuộc sống cá nhân và tự hỏi mình đã làm gì để góp vào việc tạo ra chế độ đang giam giữ chính mình. Sau khi trải qua nhiều trại lao động Solzhenitsyn nhận ra sự sa đọa của xã hội và nhà nước là hậu quả của sự xuống cấp cá nhân. Khi cách mạng Nga nổ ra, nhiều sinh mạng vô […]

Read more