fbpx

Search Results for: luận cương 10

Ukraine: Một Thắng lợi Bất bạo động

Peter Ackerman, Maciej Bartkowski, và Jack Duvall   Dân Ukraine không dùng những danh từ đao to búa lớn hay các hành động bạo lực để lật đổ nhà lãnh tụ chuyên chế và các tay sai của ông ta. Chống đối dân sự đã phá tan sự chính danh của một chính quyền áp bức và tham nhũng. Phong trào bất bạo động đã làm tan biến sự ủng hộ của dân chúng và lòng trung thành của phe hỗ trợ Victor Yanukovych. Ngày 25 tháng 2 hãng thông tấn Reuters News loan tin một thanh niên 25 tuổi, đã từng học quân sự tại trung tâm huấn luyện sinh viên sĩ quan, được coi như là người khiến cho Victor Yanukovych phải bỏ chạy. Thanh niên đó đã phát biểu trong một cuộc mít-tinh tại Kyiv, đả kích các nhà chính trị Ukraine đã toa rập “với tên sát nhân” khi họ thỏa hiệp với Yanukovych vào ngày hôm đó, thanh niên này đã đòi “ngày mai vào 10 giờ sáng Yanukovych phải ra đi” — có người cho rằng đó là một lời đe dọa sẽ sát hại. Như thường lệ, giới truyền thông đua nhau đăng tải hình ảnh các rào chắn và các lốp xe hơi bị đốt cháy. Bạo động thường được các giới truyền thông thích phổ biến, tuy nhiên điều này đã không xảy ra suốt trong thời gian 88 ngày của cuộc đấu tranh đưa Ukraine trở lại con đường dân chủ thực sự. Từ khi bắt đầu có các cuộc biểu tình tại Kyiv vào ngày 24 tháng 11 năm 2013 cho tới ngày Victor Yanukovych bỏ chạy khỏi thủ đô ngày 21 tháng 2 năm 2014, dân Ukraine đã liên tục dùng một loạt các chiến thuật bất bạo động khiến cho chính quyền phải khuất phục. Maidan Ba ngày sau ngày 21 tháng 11, khi chính quyền loan báo đã ngưng tiến hành một hiệp ước gia nhập Cộng đồng Âu châu, sự kiện này đã gây ra phản ứng phẫn nộ trong dân chúng: 100,000 người Ukraine đã cầm cờ Âu châu biểu tình tuần hành khắp trong thành phố, và một cuộc mít tinh của quần chúng đã chiếm đóng quảng trường Maidan ngay tại trung tâm thành phố. Cuộc biểu tình, mệnh danh là “Maidan,” đã liên tiếp diễn ra với sự tham dự của hàng ngàn người thường xuyên cắm lều tại quảng trường và sau đó hàng trăm ngàn người, kẻ đứng người ngồi, đã tham gia vào những cuộc biểu tình lớn vào cuối tuần. Trong ba tháng phản kháng, người dân Ukraine đã thực sự cố ý tạo ra một cộng đồng chính trị tự quản ngay tại quảng trường trong mùa đông lạnh lẽo. Trường đại học ngoài trời tại Maidan đã cung cấp hàng trăm cuộc thuyết trình và diễn đàn thảo luận suốt trong thời gian chiếm giữ quảng trường để trao đổi thông tin và huấn luyện quần chúng. Các luật sư đã phát động chương trình “Euromaidan SOS” để trợ giúp về pháp luật và tài chánh cho […]

Read more

Quyển VII

Chương 1 Những ai muốn tìm hiểu mô hình chính quyền nào là mô hình tốt đẹp nhất, trước hết, phải xác định xem một cuộc đời đáng sống nhất là một đời sống như thế nào. Khi ta còn chưa biết chắc về điều này, thì ta cũng không biết chắc được cái mô hình chính quyền nào là tốt đẹp nhất. [Tuy nhiên,] trong trật tự của thiên nhiên, ta có thể đoán được những người sống một đời sống tốt đẹp là những người được sống trong một chính thể tốt đẹp nhất mà hoàn cảnh cho phép. Do đó, trước hết, ta nên xác định thế nào là một cuộc đời đáng sống, và xét xem một đời sống như vậy có phải là một đời sống tốt đẹp nhất cho cả cá nhân và chế độ hay không? Trong những phần thảo luận bên ngoài Học Viện, ta đã bàn về những yếu tố tạo nên một đời sống tốt đẹp nhất; ở đây chỉ xin nhắc lại sơ lược. Chắc chắn ai cũng đồng ý rằng, để có một đời sống tốt đẹp, con người cần có ba “cái tốt” – vật chất, thể chất, và tinh thần. Chắc chắn rằng, chẳng ai có thể nói mình là người hạnh phúc mà lại nhút nhát đến nỗi sợ cả một con bọ bay qua, hay thiếu tiết độ và khôn ngoan mà phạm vào tội ác chỉ để thỏa mãn lòng ham mê ăn uống, hay hy sinh cả người bạn thân thiết vì những lợi ích cỏn con, hay có một thể chất và tâm tính yếu nhược như một đứa bé. Hầu như ai cũng công nhận những điều này, nhưng con người khác nhau về mức độ hoặc xếp những giá trị này có cao có thấp. Có người nghĩ rằng, chỉ cần một phần đạo đức vừa phải thôi là đủ rồi mà chẳng đếm xỉa gì đến việc giới hạn lòng ham muốn của cải, tài sản, danh vọng, quyền lực, vân vân. Đối với những người này, ta chỉ cần đưa ra những sự thật mà ai cũng công nhận; đó là, người ta không có đức hạnh hay không giữ được đức hạnh bằng vật chất bên ngoài, nhưng có được vật chất bên ngoài là nhờ vào đức hạnh. Còn những người có hạnh phúc, không kể hạnh phúc về thể xác hay tinh thần, thường là những người đã dày công tu dưỡng đức tính, tâm trí, và chỉ có một số vật chất bên ngoài vừa đủ, chứ không phải là những người có thừa mứa vật chất bên ngoài, nhưng lại nghèo nàn về đức tính. Nhận xét này không những chỉ là kết quả của kinh nghiệm, mà nếu nghĩ cho kỹ, sẽ thấy rất phù hợp với luận lý. Ta thấy rõ tất cả vật chất bên ngoài đều có giới hạn, và cũng như mọi dụng cụ, hoặc những thứ gì hữu dụng cho con người, thì khi có nhiều quá những thứ này sẽ làm hại con người, hoặc […]

Read more

Quyển VI

Chương 1 Chúng ta đã xem xét một số những mô hình khác nhau của quyền lực tối cao trong một nước cùng với những cấu trúc những cơ quan luật pháp và điều hành quốc gia, và những mô hình nào thích hợp với chế độ nào. Ta cũng bàn qua về nguyên nhân gây nên sự sụp đổ hay sự duy trì những chế độ khác nhau. Chế độ dân chủ và các loại chế độ khác cũng có nhiều loại; cho nên, ta sẽ bàn xem những phương thức tổ chức như thế nào thì có lợi và thích hợp với loại nào, cùng với những điều chưa được bàn tới.  Thêm vào đó, ta sẽ bàn về những sự phối hợp của những phương thức này, vì những sự phối hợp như vậy khiến cho những mô hình hiến pháp chồng tréo với nhau, như chế độ quý tộc lại có đặc tính của quả đầu và chính quyền theo hiến pháp lại có khuynh hướng dân chủ. Khi bàn về những sự phối hợp vẫn còn chưa được bàn đến, tôi muốn nói đến những điều sau đây: khi cơ quan lập pháp và sự bầu cử những viên chức chính quyền được quy định (bởi hiến pháp) theo quả đầu, cơ quan tư pháp theo kiểu quý tộc, hay khi tòa án và quốc hội theo hình thức quả đầu và bầu cử quan chức theo kiểu quý tộc, hay bất kỳ kiểu nào, nhưng không tạo được sự hài hòa trong cấu trúc của nhà nước. Ta đã xem xét mô hình dân chủ nào hay mô hình quả đầu nào thì thích hợp với nhà nước nào và dân chúng nào? Thêm vào đó, không những ta phải xét xem cơ cấu chính trị nào thì thích hợp nhất với nhà nước nào, mà còn phải xét xem những mô hình này được thành lập như thế nào? Trước hết, hãy bàn về chế độ dân chủ, và từ đó, ta sẽ thấy được một chế độ tương phản với chế độ dân chủ mà ta thường gọi là chế độ quả đầu. Nhằm đáp ứng mục đích của cuộc khảo sát này, ta cần phải xác định rõ ràng tất cả những phần tử và đặc tính của chế độ dân chủ, vì những chính quyền dân chủ khác nhau phát xuất từ sự phối hợp những đặc tính và phần tử này mà thành. Có nhiều loại chính quyền dân chủ khác nhau, và sự khác nhau do hai nguyên nhân gây ra. Nguyên nhân thứ nhất đã được bàn tới rồi; đó là sự khác biệt về dân số. Vì nhân dân gồm nhiều phần tử khác nhau như nông dân, thợ thuyền, hay lao động, và nếu phần tử thứ nhất và thứ hai kết hợp với nhau, hay cả ba phần tử kết hợp lại, thì không những sẽ tạo nên một chế độ có thể tốt hơn hoặc xấu hơn, nhưng bản chất của chế độ cũng sẽ bị thay đổi theo. Nguyên nhân thứ hai […]

Read more

Quyển V

Chương 1 Chúng ta đã luận qua bốn đề mục trong các chương vừa qua. Đề mục kế tiếp là về những nguyên nhân gây ra cách mạng, có bao nhiêu loại, và bản chất của những cuộc cách mạng này. [Ngoài ra,] còn phải xét xem loại chế độ nào thì dễ thoái hóa sang loại nào nhất, và những phương thức bảo tồn các chế độ nói chung và từng loại chế độ nói riêng, và cách thức nào sẽ là cách thức tốt nhất để bảo tồn chế độ. Đầu tiên ta phải giả thiết rằng trong những mô hình chính quyền đã được thiết lập đều có khát vọng công lý và bình đẳng, dù người ta vẫn chưa đạt được khát vọng này như tôi đã giải thích trước đây. Thí dụ như chế độ dân chủ được xây dựng trên khái niệm là những ai bình đẳng trên bất kỳ một phương diện nào thì cũng bình đẳng trên mọi phương diện: bởi vì mọi người đều có tự do như nhau, nên mọi người phải được tuyệt đối bình đẳng. Chế độ quả đầu dựa trên khái niệm là những ai không bình đẳng về một phương diện nào, thì cũng nhất thiết không bình đẳng trên mọi phương diện, thí dụ như sự bất bình đẳng về tài sản dẫn tới sự bất bình đẳng tuyệt đối. Những người dân chủ nghĩ rằng vì họ bình đẳng cho nên họ phải được bình đẳng trên mọi phương diện; còn những người theo quả đầu lại đòi hỏi hơn nữa cho rằng họ không bình đẳng với những người khác. Cả hai mô hình chính quyền này đều cho rằng chế độ của họ có một nền tảng công lý, nhưng nếu xét trên tiêu chuẩn tuyệt đối thì cả hai đều còn khiếm khuyết, và như vậy cả hai phe, khi mà không được tham gia vào chính sự theo như định kiến của họ, sẽ nổi loạn. Những người tài năng kiệt xuất là những người có lý lẽ vững chắc nhất để nổi loạn (vì chỉ có họ mới thực sự là không bình đẳng với người khác), nhưng những người này lại ít có khuynh hướng nổi loạn nhất. Còn có một loại ưu việt khác do những người cho rằng họ hơn người là vì xuất thân từ danh gia vọng tộc. Như thế, đây chính là cội nguồn của cách mạng, đưa đến hai loại thay đổi chế độ. Loại thứ nhất nhằm thay đổi hiến pháp, tức là thay đổi cơ cấu hiện hữu sang cơ cấu khác, như từ dân chủ sang quả đầu hay từ hai loại này sang chính thể theo hiến pháp hoặc quý tộc hay ngược lại. Loại thứ hai không nhằm thay đổi hiến pháp mà chỉ nhằm nắm những cơ quan chính quyền. Thêm vào đó phe cách mạng trong trường hợp này có thể gia giảm tính chất của chế độ, thí dụ chế độ dân chủ trở nên dân chủ hơn hay kém dân chủ hơn sau […]

Read more

Có Gan Làm Giàu

William Brody LGT. Bài diễn văn của Giáo sư Bill Brody, Viện trưởng Viện Đại học Johns Hopkins, tại một buổi họp của Hội Metropolitan tại thành phố New York. Trong bài nói chuyện này GS Brody đã nêu lên những yếu tố và nguyên nhân đưa đến sự suy thoái của nước Mỹ. Đây là những lời cảnh báo không những chỉ cho nước Mỹ, mà còn là bài học cho những nước đang phát triển, mà Việt Nam là một trong những nước này, để thấy và biết những gì cần tránh, cũng như những gì cần phát huy trong một thế giới đa cực và toàn cầu ngày nay.   Buổi trưa, ngày thứ Hai, 25 tháng 4, 2005 Tại phòng ăn của Hội Metropolitan, thành phố New York Vào giữa thập niên 1960, khi cuộc chiến VN lên cao điểm, quân đội Mỹ phải đương đầu với một khó khăn lớn lao. Đó là những khu rừng dày đặc tại VN mà dù chúng ta có xe tăng, tàu bò tối tân cũng không vượt qua được những khu rừng này. Thành ra một số nhà khoa học của chúng ta nảy ra một sáng kiến. Họ nói là quân đội của ta cần một đàn voi rô-bô bằng máy để càn vào những khu rừng này. Rồi thì họ sử dụng những đồng tiền thuế mà chúng ta kiếm được rất vất vả để nghiên cứu và chế tạo những con voi máy. Cùng lúc đó, đối đầu với mối đe dọa từ cuộc Chiến tranh Lạnh, một nhóm những nhà nghiên cứu khác dùng tiền của Liên Bang để nghiên cứu về thần giao cách cảm và vận dụng năng lượng tâm ý để điều khiển vật chất từ xa, và để xem ta có thể đọc được ý tưởng của những nhà lãnh đạo Xô-viết xem họ có ý định “tiên hạ thủ vi cường” phóng hỏa tiễn đánh ta trước hay không. Đó là những câu chuyện có thật. Và dù rằng nghe nó có vẻ khôi hài, buổi trưa hôm nay tôi sẽ không nói với quý vị về lịch sử của những ý tưởng có vẻ điên rồ và sự phí phạm tiền thuế của quý vị cũng như của tôi. Nhưng ngược lại, tôi muốn trình bày với quý vị rằng những nhà khoa học đó, những người cố tìm cách đọc tâm ý người khác hay làm ra những con voi máy, thực ra họ chính là những anh hùng vô danh của nước Mỹ–một loại anh hùng mà chúng ta ngày nay còn cần có nhiều hơn. Tôi rất vui vì được hội Metropolitan mời làm diễn giả cho một trong những buổi nói chuyện trong bữa ăn trưa. Đây là một dịp tốt cho tôi được thưa chuyện với những nhà lãnh đạo ngay tại thủ đô văn hóa và chính trị của nước Mỹ. Một lần nữa xin cám ơn ông Chủ tịch Charles đã có lời giới thiệu rất nồng nhiệt. Như Charles đã nhắc lúc nãy, trong chín năm qua tôi là người […]

Read more

Sự Quan trọng của Giáo dục Cơ bản

Amartya Sen[1]   Diễn văn của Amartya Sen tại Hội nghị về Giáo dục của các Quốc gia trong khối Liên Hiệp Anh tại Edinburgh Tôi rất hân hạnh có dịp được nói chuyện trong buổi họp ngày hôm nay tại hội nghị về giáo dục của các quốc gia trong khối Liên Hiệp Anh. Tôi cũng rất vui mừng quý vị đã chọn Edinburgh là địa điểm cho buổi hội nghị quan trọng này. Tôi rất lấy làm tự hào đã có  mối quan hệ cá nhân  đối với Edingburg, vì được là cựu môn sinh của hai trường đại học ở đây, tức là đại học Edinburg University và đại học Heriot-Watt University (dù mối quan hệ đó chỉ có tính cách danh dự nhưng nó cũng khiến cho tôi thấy mình thật sự đã là môn sinh tại đây), và cũng vì tôi là hội viên của Hội Hoàng gia tại Edinburg và cũng nhờ những các quan hệ khác đối với thành phố lớn lao này. Vì vậy tôi xin chào mừng quý vị tới thành phố đẹp đẽ này và đã đến với cộng đồng trí thức tuyệt vời của thành phố, mà tôi đã được vinh dự là một hội viên du mục, và cũng có thể gọi là một học sĩ lang thang.  Nhưng  với lời chào mừng đó, tôi cũng phải nói thêm rằng không có chỗ nào thích hợp hơn để thảo luận về vấn đề “thu hẹp hố cách biệt về giáo dục” ngay tại thành phố của Adam Smith và David Hume,[2] là hai nhân vật đã từng chủ trương mạnh nhất và sớm nhất về giáo dục cho quần chúng. Tại sao lại rất quan trọng là phải thu hẹp sự cách biệt về giáo dục, và xoá bỏ sự chênh lệch lớn lao giữa khả năng tiếp cận giáo dục, khả năng gia nhập vào hệ thống giáo dục và giữa các thành quả về giáo dục ? Trong những lý do khác nhau, có một lý do quan trọng nhất đó là điều này rất quan trọng để tạo ra một thế giới an toàn hơn và công bằng hơn. HG Wells, trong tác phẩm Sơ lược về Lịch sử của ông, đã không nói quá khi ông nói rằng: “Lịch sử của nhân loại càng ngày càng trở nên một cuộc chạy đua giữa giáo dục và tai biến.”  Nếu chúng ta tiếp tục để một phần lớn của dân chúng ở trên thế giới ra ngoài quỹ đạo của giáo dục, thì chúng ta đã khiến cho thế giới trở thành không những thiếu công bằng, mà lại còn thiếu an toàn nữa. Sự bất ổn trên thế giới hiện nay còn lớn hơn cả những sự bất ổn đầu thế kỷ thứ 20 là thời đại của H.G. Wells. Thực vậy, từ khi có những biến cố kinh hoàng ngày 11 tháng 9 năm 2001 – và những biến cố sau đó – thế giới đã trở nên hoàn toàn quan tâm tới những vấn đề bất an về vật chất. Nhưng sự […]

Read more

Phương pháp Sư phạm cho Người Lớn

ANDRAGOGY I. Mở đầu Education là một từ có gốc từ tiếng La-tinh “educare” và “educere.” Educare có nghĩa là nuôi dưỡng, uốn nắn, còn educere là hướng dẫn và phát triển những khả năng bẩm sinh. Hai từ này ghép lại và được Hán hóa thành “giáo dục.” Vậy thì giáo dục gồm có hai phần, phần dạy (giáo) về tâm trí, và phần dưỡng (dục) tức là rèn luyện về nhân cách. Pedagogy là một từ có gốc từ tiếng Hy-lạp, với ngữ căn pais, hay paidos, có nghĩa là sự giáo dục một đứa trẻ (ngữ căn này được dùng trong pedagogy,tức là khoa sư phạm, và pediatrics, tức là ngành nhi khoa). Chuyển  sang Việt ngữ, ta có từ sư phạm là một ngành học nhằm đào tạo thầy cô giáo về cách dạy học cho trẻ em (ngành học này có các  cấp như  trường cao đẳng sự phạm và đại học sư phạm) từ mẫu giáo cho tới trung học. Hiểu theo nghĩa rộng, sư phạm là một khoa học về giảng dạy và lâu dần ta không còn phân biệt là mục tiêu chính của sư phạm là cách thức giảng dạy cho trẻ em. Trẻ em có những đặc điểm về tâm và thể lý khác với người lớn nên thầy cô phải nắm vững những phương pháp và  đặc tính tâm lý này để truyền đạt kiến thức cho hữu hiệu; những phương pháp sư phạm cho trẻ em gồm có cách thức dạy học truyền thống (thày đọc, trò chép, học thuộc lòng) hay, thí dụ như, phương pháp Montessori, một phương pháp dạy học qua đó học sinh được khuyến khích để phát triển khả năng nhận thức, tìm tòi kiến thức qua sự tự khám phá, và được tự do trong phạm vi giới hạn để làm những điều này. Phương pháp này được Maria Montessori đề xướng năm 1897 tại Ý dựa trên lý thuyết kiến thức do người học tự mình xây dựng qua kinh nghiệm (constructivism). Tiêu biểu cho khuynh hướng này là John Dewey, một nhà giáo dục hàng đầu của Mỹ. Một điểm ta cần lưu ý là trẻ em bị “bắt buộc” phải đi học, dù có muốn hay không, nên có rất nhiều trường hợp học sinh ngồi trong lớp nhưng tâm hồn để ở đâu đó bên ngoài lớp học. Với sự phát triển của công nghệ, những kiến thức con người đã thủ đắc được chóng trở thành lỗi thời, và để đáp ứng lại những đòi hỏi này, người lớn cũng cần phải tự học tập, hay được huấn luyện để nâng cao khả năng của mình trước những yêu cầu mới của công việc. Phương pháp giảng dạy cho người lớn không thể theo dạng thức truyền thống cổ điển mà phải được thay đổi để phù hợp với học viên (learner, chứ không còn là học sinh nữa) hầu có thể mang lại hiệu năng cao nhất cho người học. Phương pháp sư phạm dành cho người lớn được gọi là andragogy (đọc là AN-druh-goh-jee) gồm […]

Read more

Giáo dục Tự do (Liberal Education) Là Gì?

Bố mẹ: Con định theo học ngành gì? Con: Con sẽ theo học ngành Lịch sử Nghệ thuật.[1] Bố mẹ: Hả!!!…Học cái đó thì làm được cái gì hả con? Con: …   I. Giới thiệu Cổ Hy-lạp, cách đây hơn ba ngàn năm, không phải là một quốc gia theo ta hiểu như ngày nay, mà gồm có nhiều thành-quốc (city-state), như Athens, Sparta, v.v… Tại những thành-quốc này chỉ có nam giới, có đầy đủ tình trạng công dân hợp pháp mới có quyền tham chính và làm chủ tài sản. Phụ nữ, trẻ em, ngoại kiều, người lao động, và nô lệ là những thành phần khác trong xã hội chỉ được hưởng những quyền lợi rất giới hạn (Cartwright, 2013). Có ba giai cấp chính trong xã hội cổ Hy-lạp: (1) giai cấp trưởng giả “aristoi” gồm những người giàu, có tài sản và đất đai, và có thể tự trang bị cho mình vũ khí, áo giáp và ngựa để tham gia chiến sự (đây là mô hình quân đội nhân dân, do chính người dân tự trang bị cho mình); thành phần này nắm hết các chức vụ quan trọng của thành-quốc và đất đai của họ thuộc loại tốt và nằm trong thành nội; (2) giai cấp địa chủ là thành phần sở hữu ruộng đất, nhưng những thửa đất này nằm bên ngoài tường thành của thành-quốc và do đó không được bảo vệ khi có chiến tranh; giai cấp này được gọi là “periokoi;” (3) giai cấp công thương gồm những người thợ và nhà buôn, họ là thị dân tự do sinh sống trong thành phố; giai cấp này có nhiệm vụ phục vụ cho thành-quốc, và không được tham chính, vì thành phần trưởng giả và gia đình của họ (các quý tộc) nắm giữ chức vụ quan trọng, chỉ cho phép giai cấp địa chủ tiến lên giai cấp trên (Cartwright). Còn một thành phần nữa trong xã hội cổ Hy-lạp là thành phần nô lệ, gồm những tù binh bị bắt trong chiến tranh, được tha chết nhưng phải phục dịch cho kẻ chiến thắng. Thành phần nô lệ làm những công việc nặng nhọc mà những người tự do không “thèm” làm. Người Hy-lạp, theo Aristotle, rất cần có thời giờ thư nhàn (leisure) để được tự do lựa chọn những sinh hoạt hướng thượng đưa đến hạnh phúc (Archibald, 2008). Muốn có thời giờ thư nhàn, thì phải thuộc thành phần khá giả, không phải làm lụng vất vả; do đó, chỉ có giai cấp trung lưu trở lên mới có được điều kiện này. Người cổ Hy-lạp rất coi trọng giáo dục, họ quan niệm rằng chỉ có những công dân có học mới có thể tham gia một cách hữu hiệu vào hệ thống chính trị; cho nên trẻ con của họ được dạy học từ nhỏ, bắt đầu từ sáu hay bảy tuổi, nhưng chỉ con trai của công dân mới được đi học mà thôi, con gái có thể học ở nhà, chú trọng vào công, dung, ngôn, hạnh, và những […]

Read more

Vài Suy nghĩ về Tuyên ngôn Giáo dục của Nhóm Paideia

LGT: NHÓM PAIDEIA[1] là một tổ chức quy tụ những nhà giáo dục hàng đầu của Mỹ như những viện trưởng, khoa trưởng, của những đại học nổi tiếng của Mỹ như Columbia, Notre Dame, Harvard, hiệu trưởng trung học, và một số thành viên ban quản trị các “think tank”có tầm vóc như Carnegie Foundation, Aspen Institute, v.v… Nông Duy Trường Nhập đề Giáo dục phổ thông của Mỹ đang “có vấn đề,” vì là cường quốc số một trên thế giới, nhưng theo báo cáo năm 2012 của tổ chức Pearson,[2] một tổ chức chuyên nghiên cứu về giáo dục toàn cầu, thì học sinh phổ thông của Mỹ chỉ đứng hạng thứ 17 trong tổng số 34 nước phát triển (OECD-Organization for Economic Cooperation and Development). Sự suy thoái về phẩm chất giáo dục của học sinh Mỹ, tuy đáng lo ngại, nhưng nếu ta so sánh với kết quả của những năm trước như 2009, Mỹ đứng hạng 25 trên tổng số 34 nước về hai môn toán và khoa học, và năm 2006, chỉ có 6% là có trình độ ngang với các nước khác, thì kết quả này còn khá hơn một chút.[3] Những con số này cho thấy nước Mỹ đã và đang tiến hành những chương trình cải cách về giáo dục phổ thông. Những chương trình cải cách giáo dục phổ thông của Mỹ bắt đầu từ thập niên 1960 sang đến 1970. Học sinh tiểu học và trung học của Mỹ bị đưa ra làm thí nghiệm cho những kế hoạch cải cách không tưởng, phá bỏ mọi nguyên tắc cơ bản về giáo dục.[4] Cho đến thập niên 1980, một báo cáo mang tựa đề A Nation At Risk (ANAR) đã gióng lên tiếng chuông báo động về sự suy thoái của nền giáo dục phổ thông và đề nghị phải cải cách khẩn cấp. Một số những biện pháp đã được đề nghị, nhưng kết quả cũng khiêm nhượng như thành quả của học sinh Mỹ thu được qua những kỳ thi quốc tế. Còn Việt Nam của chúng ta thì sao? Theo Giáo sư Hoàng Tụy thì Việt Nam đã tiến hành cải cách giáo dục từ năm 1991, nhưng hệ thống giáo dục Việt Nam vẫn chưa được thực hiện nghiêm chỉnh. Ông đề nghị bốn đề xuất cải cách giáo dục. [5]Gần đây nhất (2012) là phát biểu của Giáo sư Trần Ngọc Thêm cho rằng giáo dục Việt Nam hiện đang mắc bốn “trọng bệnh.”[6] Ta cần nhớ là cải cách, tu bổ là công việc cần phải được thực hiện định kỳ, không những chỉ trong lãnh vực giáo dục mà còn ở trong mọi lãnh vực khác của xã hội. Lý do đơn giản là vì xã hội và kỹ thuật ngày nay đã tiến quá mau. Nếu không theo kịp với đà tiến này, một nước sẽ bị rơi vào tình trạng lạc hậu. Sau những thất bại của những chương trình cải tổ giáo dục, một số học giả của Mỹ đã phân tích và nhận ra những chương trình […]

Read more

Nelson Mandela: Tám Bài Học về Thuật Lãnh Đạo

Richard Stengel LGT. Nelson Rolihlahla Mandela là cựu tổng thống Nam Phi và cũng là vị tổng thống đầu tiên được toàn quốc Nam Phi kể cả người Nam Phi da trắng và da đen bầu ra. Sinh năm 1918, năm nay 93 tuổi, Mandela đã trải qua một thời gian dài đấu tranh bằng phương pháp bạo lực vũ trang để chấm dứt chế độ phân chủng tại Nam Phi. Vì những hoạt động này ông đã bị kết án tù chung thân và phải chịu sự giam cầm trong suốt 27 năm tại những nhà tù hắc ám nhất của Nam Phi. Sau này Mandela thay đổi chiến lược tiến hành đấu tranh bất bạo động và được trả tự do năm 1990. Trong cuộc bầu cử đa đảng và đa chủng đầu tiên năm 1994, đảng ANC của Mandela đã giành thắng lợi, và ông trở thành vị tổng thống da đen đầu tiên trong lịch sử của nước Nam Phi. Mandela nhận được hơn 250 huy chương và giải thưởng cho những hoạt động của ông, kể cả giải Nobel Hòa bình năm 1993. Richard Stengel là nhà văn và ký giả đã cộng tác với Mandela để viết cuốn tiểu sử tự bạch”Bước Đường Tự Do” của Mandela. Bài viết này được đăng trên Tạp chí Time, số ra ngày 9 tháng Bảy, năm 2008, nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 90 của Mandela. *** Nelson Mandela chỉ cảm thấy thoải mái khi ở gần trẻ con, và ta có thể nói rằng sự mất mát lớn nhất mà ông phải chịu trong 27 năm tù là không được nghe tiếng khóc của trẻ con hay được cầm lấy tay chúng. Tháng vừa rồi, khi tôi đến thăm Mandela tại Johannesburg, tôi gặp một Mandela chậm chạp hơn, gầy yếu hơn-hành động tự nhiên đầu tiên của ông là dang tay ôm hai đứa con trai của tôi vào lòng. Chỉ trong giây lát chúng cũng quấn quít lấy ông lão đang thân mật hỏi han chúng ăn gì vào buổi sáng và thích môn thể thao nào nhất. Trong lúc chúng tôi chuyện trò, Mandela ôm lấy con trai tôi, bé Gabriel. Cháu có cái tên đệm khá rắc rối là Rolihlahla. Cái tên này cũng là tên cúng cơm thật sự của Mandela. Ông kể cho Gabriel sự tích cái tên đó, và ý nghĩa của nó trong tiếng Xhosa[1]là “kéo cành cây xuống” nhưng ý nghĩa thực sự của nó là “kẻ gây rối.” Tuần sau, Nelson Mandela sẽ kỷ niệm sinh nhật thứ 90, [trong từng ấy năm,] ông là kẻ đã gây đủ rắc rối cho cả vài kiếp người. Ông đã giải phóng đất nước ông ra khỏi một hệ thống đầy thành kiến quá khích và góp phần vào đoàn kết sắc dân da trắng và đa đen, những kẻ đàn áp và những người bị đàn áp, bằng một phương thức vô tiền khoáng hậu. Năm 1990, tôi làm việc với Mandela gần hai năm để thực hiện cuốn tiểu sử tự bạch Bước Đường Dài […]

Read more