Tina Rosenberg NỀN DÂN CHỦ MỚI, VẾT THƯƠNG CŨ “Không ai động đến ai cả,” tướng Augusto Pinochet cảnh báo vào tháng 10 năm 1989, hai tháng trước cuộc bầu cử tự do đầu tiên của Chile kể từ cuộc đảo chính năm 1973 của ông. “Ngày mà họ động đến một trong những người của tôi, thì luật pháp sẽ chấm dứt. Tôi nói điều này một lần và sẽ không nói lại nữa.” Bình luận của nhà lãnh đạo quân phiệt cũ, được đưa ra gần như một cách hời hợt với các phóng viên, đã phủ một lớp sương mù lên bầu không khí tranh cử giống như mùa lễ hội. Đúng như dự đoán, lực lượng chống Pinochet đã giành thắng lợi. Nhưng lời cảnh báo của vị tướng vẫn còn vang động. Những người kế nhiệm theo chế độ dân chủ của Pinochet đã chọn không thách thức lời tuyên bố của ông ta. Lời cảnh cáo của Pinochet táo bạo một cách bất thường, nhưng tình thế tiến thoái lưỡng nan mà lời cảnh báo của bạo chúa già đối với nền cộng hòa Chile mới không phải là điều gì mới mẻ. Một trong những câu hỏi đầu tiên mà một quốc gia dân chủ mới phải đối mặt là phải làm gì với những kẻ độc tài cũ. Kể từ Cách mạng Pháp, rõ ràng là những lựa chọn mà các nền dân chủ mới đưa ra—có nên điều tra di sản của chế độ chuyên chế, xét xử các nhà lãnh đạo, thanh trừng các quan chức hay động chạm đến một trong những tướng lãnh của chế độ—có thể định hướng cho một hệ thống dân chủ mới ra đời. Nhưng chỉ trong khoảng 15 năm trở lại đây, các quốc gia mới nhận thức đầy đủ về những gì đang bị đe dọa khi đối phó với chế độ áp bức quá khứ. Sau Thế chiến II, khái niệm về nhân quyền và quyền tự do dân sự—trước đây được cho là nằm ngoài tầm với của công dân tại hầu hết các quốc gia—ngày càng được nhiều quốc gia chấp nhận. Thêm vào đó, kể từ giữa những năm 1970, một số lượng lớn các quốc gia đã chuyển từ chế độ độc tài sang chính quyền dân sự được bầu lên. Đầu tiên là Nam Âu—Bồ Đào Nha, Hy Lạp và Tây Ban Nha. Vào những năm 1980, làn sóng này đã lan tới Châu Mỹ Latinh—Argentina, Bolivia, Brazil, Chile, Ecuador, Honduras, Nicaragua, Panama, Paraguay, Peru và Uruguay. Năm 1992, El Salvador đã kết thúc một cuộc chiến tranh cướp đi sinh mạng của 75.000 thường dân. Vào những năm 1980 và đầu những năm 1990, ít nhất 15 quốc gia châu Phi đã thoát khỏi chế độ độc đảng áp bức và tổ chức các cuộc bầu cử đa đảng. Sau năm 1989, khối Xô Viết đã hoàn toàn tan vỡ. Tất cả các nước đó hiện nay vẫn còn phải đối đầu với quá khứ áp bức của mình. Có hai lý do chính phải […]
Kẻ giết người hàng loạt lớn nhất trong lịch sử là ai?
Ilya Somin Ít nhất 45 triệu người đã bị chết đói, bị bắn, bị tra tấn và cưỡng bách lao động cho đến chết. Kẻ giết người hàng loạt lớn nhất trong lịch sử thế giới là ai? Hầu hết mọi người có thể cho rằng câu trả lời là Adolf Hitler, kiến trúc sư của Holocaust. Những người khác có thể đoán là nhà độc tài Liên Xô Joseph Stalin, người thực sự có thể đã giết nhiều người vô tội hơn cả Hitler đã làm, nhiều người trong số họ là một phần của nạn đói khủng bố có thể cướp đi nhiều sinh mạng hơn Holocaust. Nhưng cả Hitler và Stalin đều thua Mao Trạch Đông. Từ năm 1958 đến năm 1962, chính sách Đại Nhảy Vọt của ông đã dẫn đến cái chết của 45 triệu người—dễ dàng khiến nó trở thành vụ giết người hàng loạt lớn nhất từng được ghi nhận. Cuộc diệt chủng rộng lớn hàng triệu người, tàn nhẫn, có chủ ý Nhà sử học Frank Dikötter[1], tác giả của cuốn sách quan trọng Mao’s Great Famine, gần đây đã đăng một bài báo trên tờ History Today, tóm tắt những gì đã xảy ra: Mao nghĩ rằng ông ta có thể đưa đất nước của mình vượt qua các đối thủ cạnh tranh bằng cách dồn dân làng trên khắp đất nước vào các công xã khổng lồ. Để theo đuổi một thiên đường không tưởng, mọi thứ đều được tập thể hóa. Mọi người đã bị tước đoạt công việc, nhà cửa, đất đai, đồ đạc và sinh kế của họ. Trong các căng tin tập thể, thức ăn— được chia từng thìa tùy theo thành tích— đã trở thành vũ khí được sử dụng để buộc mọi người tuân theo mọi mệnh lệnh của đảng. Khi các biện pháp khuyến khích lao động bị loại bỏ, ép buộc và bạo lực được sử dụng để buộc những người nông dân đói khổ phải lao động trong các dự án thủy lợi được quy hoạch tồi tệ còn các cánh đồng đều bị bỏ mặc. Một thảm họa có tầm vóc khổng lồ xảy ra sau đó. Từ số liệu thống kê dân số được công bố, các nhà sử học đã suy đoán rằng hàng chục triệu người đã chết vì đói. Nhưng tầm mức thực sự của những gì đã xảy ra bây giờ mới được đưa ra ánh sáng nhờ có các báo cáo tỉ mỉ mà chính đảng đã biên soạn trong nạn đói… Điều rút ra từ hồ sơ đồ sộ và chi tiết này là một câu chuyện kinh dị trong đó Mao— nổi lên là một trong những kẻ giết người hàng loạt vĩ đại nhất trong lịch sử— phải chịu trách nhiệm về cái chết của ít nhất 45 triệu người trong khoảng thời gian từ 1958 đến 1962. Câu chuyện kinh dị đó không chỉ đơn thuần là mức độ của thảm họa vô cùng lớn hơn các ước tính trước kia , mà còn là về cách nhiều người […]
NỀN DÂN CHỦ MỸ VẪN ĐANG LÂM NGUY
Làm thế nào để bảo vệ nó chống lại thù trong giặc ngoài Erin Baggott Carter, Brett L. Carter và Larry Diamond Hai năm trước, chế độ dân chủ của Hoa Kỳ phải đối mặt với một thử thách chưa từng có khi những người ủng g thống Donald Trump tìm cách đảo ngược thất bại trong cuộc bầu cử của ông—có nhóm bằng các mưu toan phi pháp, nhóm khác bằng một cuộc tấn công bạo lực vào Điện Capitol của Hoa Kỳ. Kể từ điểm thấp lịch sử đó, nền dân chủ Mỹ đã bắt đầu hoạt động tốt hơn và triển vọng của nó bắt đầu được cải thiện. Cuộc bầu cử năm 2022 đã được tiến hành thành công và những người phản đối bầu cử cực đoan đã thua ở các bang do dự quan trọng như Arizona và Pennsylvania. Ủy ban Đặc biệt Hạ viện để Điều tra Cuộc Tấn công ngày 6 tháng 1 vào Điện Capitol của Hoa Kỳ đã ghi lại một cách chính thức các cuộc bạo loạn nhằm lật ngược kết quả của cuộc bầu cử năm 2020 và vai trò xúi giục của cựu Tổng thống Hoa Kỳ Donald J. Trump. Ở Brazil và Pháp, các ứng cử viên có sự cam kết đáng ngờ vào chế độ dân chủ đã bị đánh bại trong các cuộc bầu cử tổng thống, và các cuộc bầu cử hòa bình được tổ chức ở Colombia. Trong khi đó, các chế độ độc tài mạnh nhất thế giới đang gặp khó khăn. Cuộc chiến do Tổng thống Nga Vladimir Putin chủ trương và tiến hành một cách thảm hại tại Ukraine đã phá tan huyền thoại về một Mátxcơva đang trỗi dậy. Nỗ lực của Trung Quốc để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới và cường quốc có ảnh hưởng nhất đã sụp đổ do sự quản lý yếu kém tồi tệ của Chủ tịch Tập Cận Bình đối với đại dịch COVID-19. Bong bóng bất động sản của Trung Quốc, tỷ lệ thất nghiệp trong giới thanh niên là 20%, đàn áp khu vực tư nhân do động cơ chính trị và nợ chính quyền địa phương càng ngày càng lớn đã khiến cho hậu thuẫn trong nước của Tập Cận Bình suy giảm thêm. Mặc dù Bắc Kinh và Mátxcơva đang suy yếu, nhưng họ vẫn là mối đe dọa nghiêm trọng đối với nền dân chủ. Các vấn đề trong nước của họ càng trở nên tuyệt vọng, họ càng cần phải làm mất uy tín của các hệ thống cai trị khác và bôi nhọ các đối thủ dân chủ của họ. Chính vì lý do này mà Bắc Kinh và Mátxcơva đang tiến hành một cuộc chiến thông tin sai lệch toàn cầu nhằm khai thác và gia tăng sự mong manh của nền dân chủ Mỹ. Ở Trung Quốc và Nga, cuộc chiến thông tin sai lệch này nhằm mục đích ngăn chặn các yêu cầu cải cách dân chủ bằng cách làm nền dân chủ kiểu phương Tây mất uy tín. […]
Giấc mộng Trung Hoa của Tập Cận Bình
Robert Lawrence KuhnLGT. Bài xã luận này được viết ngày 4 tháng 6 năm 2013, 6 tháng sau khi Tập Cận Bình được đại hội đảng CSTQ bầu làm chủ tịch đảng, chủ tịch nước và chủ tịch Quân uỷ hội. Lúc đó thế giới vẫn chưa biết Tập Cận Bình là con người như thế nào, cải cách hay bảo thủ. Top of Form Bottom of Form Ta có thể nói được gì về Tập Cận Bình, nhà lãnh đạo cao cấp mới của Trung quốc, người sẽ họp thượng đỉnh với tổng thống Barack Obama vào tuần này? Người ta hy vọng rằng ông Tập là một nhà cải cách, người sẽ hướng dẫn Trung Quốc chuyển đổi trong nước và thực hiện một sự lãnh đạo có trách nhiệm. [Cũng có những] điều đáng lo ngại là ông Tập là một người theo chủ nghĩa dân tộc, người đã khiến Trung Quốc hung hăng bắt nạt các nước láng giềng và đối đầu với Hoa Kỳ. Sự lo ngại này không phải không có căn cứ. Trung Quốc tăng cường tuyên bố chủ quyền lãnh thổ, từ tranh chấp biển đảo với Nhật Bản đến các khu vực rộng lớn trên Biển Đông Ông Tập thường xuyên kiểm tra các lực lượng Quân Giải phóng Nhân dân, đặc biệt là các hạm đội hải quân, khuyến khích quân đội Trung Quốc “sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng các cuộc chiến tranh” và “giành chiến thắng trong chiến tranh khu vực trong các điều kiện do Công nghệ Thông tin đề ra.” Tập Cận Bình giữ ba chức vụ cao nhất nước: Tổng bí thư đảng CSTQ, Chủ tịch nước, và Chủ tịch Quân uỷ Trung ương. Ông ta có lẽ sẽ lãnh đạo Trung Hoa trong một thập niên. Ngay sau khi trở thành tổng bí thư đảng vào cuối năm 2012, Tập đã tuyên bố điều sẽ trở thành dấu ấn trong chính quyền của ông. “Giấc mơ Trung Hoa”, ông nói, là “cuộc đại phục hưng của đất nước Trung Quốc.” Giấc mơ Trung Hoa của ông Tập được mô tả là đạt được “Lưỡng bách niên”: mục tiêu vật chất là Trung Quốc trở thành một “xã hội khá giả vừa phải” vào khoảng năm 2020, năm kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc và mục tiêu hiện đại hóa đưa Trung Quốc trở thành một nước phát triển toàn diện vào khoảng năm 2049, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Cộng hòa Nhân dân. Giấc mơ Trung Hoa có 4 phần: Trung Quốc hùng mạnh (về kinh tế, chính trị, ngoại giao, khoa học, quân sự); Trung Quốc văn minh (bình đẳng và công bằng, văn hóa phong phú, đạo đức cao); Trung Quốc hòa hợp (hòa đồng giữa các tầng lớp xã hội); Trung Quốc tươi đẹp (môi trường trong lành, ít ô nhiễm). “Một xã hội khá giả vừa phải” là nơi mọi công dân, nông thôn và thành thị, được hưởng mức sống cao. Điều này bao gồm việc tăng gấp đôi G.D.P. […]
Một cuộc cách mạng để luôn luôn ghi nhớ nhưng không bao giờ kỷ niệm
Lawrence Reed LGT: Lawrence Reed viết bài này vào năm 2017 để đánh dấu 100 năm ngày Cách mạng Tháng Mười Nga—một cuộc cách mạng tàn bạo, phi nhân đáng kinh tởm nhất của nhân loại trong thế kỷ 20. Khi cuộc Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa Tháng Mười Vĩ đại đến ngày kỷ niệm một trăm năm, điều quan trọng là phải nhớ lại sự tàn phá mà nó đã gây ra. Thứ hai, ngày 16 tháng 10 năm 2017 Tuyên truyền của Liên Xô trước đây trong nhiều thập kỷ đã gọi nó là “Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa tháng Mười Vĩ đại”, sự kiện quan trọng đưa Vladimir Lenin lên nắm quyền và mở đầu cho bảy mươi bốn năm cầm quyền của Đảng Cộng sản. Hôm nay (Thứ hai, 16 tháng Mười, 2017) chúng ta sắp đến ngày kỷ niệm một trăm năm của cuộc cách mạng đó. Nó không phải là một ngày kỷ niệm mà bất cứ ai cũng nên kỷ niệm. Đối với những người chân chính ở khắp mọi nơi, thì không có gì về thảm kịch năm 1917 của nước Nga đáng để tưởng nhớ. Tuy nhiên, mọi thứ về cuộc cách mạng đó đều phải ghi nhớ — để rút ra những bài học quan trọng. Cuộc tàn sát tạo ra bởi hệ tư tưởng lên nắm quyền cách đây một thế kỷ có thể mãi mãi là một tội ác lớn nhất trong biên niên sử về sự sa đọa của con người. Nếu bạn không chắc hệ tư tưởng đó là gì hoặc gọi nó là gì, có lẽ bài viết này sẽ hữu ích. Trước đây 49 năm tôi trở thành một nhà hoạt động vì quyền tự do để phản đối cuộc xâm lược của Liên Xô vào Tiệp Khắc. Vì vậy, một phần vì lý do cá nhân, tôi không thể để cột mốc trăm năm này trôi qua mà không ghi nhận nó theo một cách nào đó. Các nạn nhân của chế độ Xô Viết và các chế độ chuyên chế khác mà nó sinh ra trong thế kỷ 20 lên tới con số 100 triệu, nhưng liệu có bài báo, cuốn sách hoặc bộ sưu tập đồ sộ nào về các chế độ chuyên chế đó có bao giờ ghi lại đầy đủ và trung thực những câu chuyện về sự đau đớn và hy sinh của các nạn nhân đó không? Dĩ nhiên là không. Vì vậy, với sự hạn chế đó, tôi chọn để nhắc tới sự kiện này bằng cách nói với bạn một chút về chỉ hai người trong số 100 triệu đó. Tên của họ là Gareth Jones và Boris Kornfeld. __________ Gareth Richard Vaughan Jones sinh ra ở xứ Wales vào ngày 13 tháng 8 năm 1905. Cha mẹ ông đều là những nhà giáo dục trung lưu quyết tâm cho con trai của họ có được nền giáo dục tốt nhất có thể. Đến năm 25 tuổi, chàng trai trẻ Gareth đã có bằng tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Nga của Đại […]
Nghịch lý của sự đàn áp tại Trung quốc
Nghịch lý của sự đàn áp tại Trung quốc Lester R. Kurtz[1] Chính quyền Trung quốc giống như tất cả các chính quyền khác đang lúng túng tìm cách đối phó với những kẻ thù của họ. Đây là một vấn đề cốt lõi mà tất cả các chính thể chuyên chế đều phải giải quyết. Việc Ủy ban Nobel trao giải thưởng Hòa bình cho Lưu Hiểu Ba rõ ràng được coi là một sự sỉ nhục đối với quyền lực của Trung quốc và đã đưa các người bất đồng chính kiến trong nước lên tầm mức quốc tế. Đối với một chế độ không cần phải đếm xỉa tới nguyện vọng của dân chúng thì không có gì bực mình hơn là thấy bạn và những người bên ngoài vinh danh những người công dân của mình đã lên tiếng chống đối chế độ. Tội của ông Lưu là ông ấy là một nhân vật then chốt trong việc công bố Hiến chương 08 (2008) kêu gọi dân chủ hóa, mô phỏng theo Hiến chương 77 của Tiệp và Slovak và là màn giáo đầu cho cuộc Cách mạng Nhung đã khiến cho chính quyền Cộng sản của nước này bị lật đổ năm 1989. Đứng về phương diện của chính quyền chuyên chế, những người bất đồng chính kiến nội bộ rất có thể dễ giải quyết: bỏ vào tù, thủ tiêu họ, đầy họ biệt xứ hay xử án họ. Tuy nhiên không dễ mà có thể bịt miệng một ủy ban có uy tín như là Ủy ban Nobel chứ đừng nói là tới một tập thể mơ hồ mà người ta gọi là cộng đồng quốc tế. Lẽ dĩ nhiên đó là lý do tại sao giáo sư Lưu đã được trao giải thưởng. Thông điệp của ông đã được phóng đại một cách khiến cho những người trong nước không thể không để ý tới. Trong một thế giới đã thu hẹp như một làng thì những sự tranh chấp không thể nào ngưng ở trong biên giới của một nước. Nhà nước đã có những nỗ lực cô lập những người bất đồng ý kiến trong nước nhưng nỗ lực này luôn luôn thất bại và những nhà chống đối khôn khéo đã có những quan hệ tốt đối với giới truyền thông thế giới và những đồng minh then chốt ở ngoài nước. Minky Worden của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Thế giới đã ghi nhận rằng những chính sách mới đây của Trung quốc, nhằm đối phó với những người bất đồng ý kiến, là “giết gà dọa khỉ,” nói một cách khác gieo rắc sự sợ hãi để kẻ khác phải phục tùng bằng cách trừng phạt công khai một người để làm gương. Nạn nhân bị đưa ra làm vật tế thần trong trường hợp này là nhà tranh đấu cho nhân quyền Lưu Hiểu Ba. Trước kia ông là giáo sư văn chương tại Đại học Sư phạm tại Bắc kinh. Ông bị bắt giam năm 1989 sau khi đã ủng hộ cuộc biểu tình […]
Cuộc Khủng hoảng Dân chủ Toàn cầu
Larry Diamond Mở rộng dân chủ không có gì là tất yếu. Trong số các quốc gia có dân số trên một triệu, chỉ có 11 nước có chế độ dân chủ vào năm 1900, 20 nước dân chủ vào năm 1920 và 29 nước năm 1974. Chỉ trong một phần tư thế kỷ qua, dân chủ là chế độ chủ yếu trên thế giới. Đến năm 1993, lần đầu tiên trong lịch sử, số lượng nền dân chủ đã tăng vọt lên 77— trong đa số các quốc gia có ít nhất một triệu dân. Đến năm 2006, số quốc gia có chế dộ dân chủ đã tăng lên đến 86. Nhưng hiện nay chúng ta đang ở một thời điểm bấp bênh. Dân chủ đang phải trực diện với một cuộc khủng hoảng toàn cầu. Theo tổ chức phi lợi nhuận Freedom House, trong 12 năm quyền chính trị và quyền tự do dân sự liên tiếp bị xói mòn trên khắp thế giới. Trong thập kỷ qua, một trong sáu nền dân chủ đã thất bại. Ngày nay chỉ có một đa số rất nhỏ các quốc gia lớn hơn trên thế giới vẫn còn có chế độ dân chủ. Các con số đó cũng không thể hiện hết mức độ nguy hiểm. Đằng sau số liệu thống kê có thể thấy sự xoi mòn của các thể chế và chuẩn mực dân chủ ở một số các quốc gia. Trung Quốc, Nga và những người ngưỡng mộ họ đang tiến nhanh theo một khuynh hướng toàn cầu mới, ca ngợi cai trị bằng lãnh tụ độc đoán—chứ không bằng chính quyền của người dân—để tiến lên trong những giai đoạn khó khăn. Cho đến gần đây, quyết tâm của Hoa Kỳ đã giúp kìm hãm những kẻ thù chính của nền dân chủ ngày nay: đó là Trung Quốc đầy tham vọng và đang trỗi dậy, Nga phẫn uất và suy tàn, và một làn sóng dân túy mới, các nhà độc tài từ Hungary đến Philippines. Tuy nhiên, hiện nay, sự suy thoái chính trị của chính nước Mỹ ngày càng trầm trọng. Tổng thống Donald Trump đã xúc phạm các đồng minh của Hoa Kỳ, kết bạn với Vladimir Putin, miễn chê trách một số các nhà độc tài ghê gớm khác, ủng hộ các phong trào và chính trị bài ngoại, và làm lung lay trật tự tự do của thời kỳ sau Thế chiến thứ hai. Nhưng vấn đề này cũng bao gồm các chính trị gia hoài nghi trong cả hai đảng, các hệ thống cứng nhắc không phục vụ dân sinh và những công dân tự mãn không thèm đi bỏ phiếu. Tất cả những điều này đang làm lu mờ ánh sáng bóng bảy của nền dân chủ—và kéo nước Mỹ ra khỏi thế giới. Nếu chúng ta không sớm đảo ngược sự rút lui này của Hoa Kỳ, nền dân chủ trên toàn thế giới sẽ lâm nguy. Như nhà khoa học chính trị quá cố của đại học Harvard, Samuel Huntington, đã giải thích, sự thay đổi […]
Tại sao nền dân chủ Mỹ đang ở trong tình trạng nguy hiểm?
Eric Schoon và Corey Pech Hoa Kỳ là một nền dân chủ có khuyết điểm. Đây không phải là một nhận định chủ quan, mà là một đánh giá do Chỉ số Dân chủ hàng năm của tạp chí Economist ấn định cho Hoa Kỳ. Việc hạ cấp từ “dân chủ hoàn toàn” là đỉnh điểm của một thập kỷ sụt giảm xếp hạng, đưa Hoa Kỳ ra khỏi bảng xếp hạng bao gồm Úc, Canada và Vương quốc Anh và đưa Mỹ vào nhóm ngang hàng với Ấn Độ, Botswana và Chile. Trong nhiều thập kỷ sau những thành công của phong trào dân quyền và việc thông qua Đạo luật Quyền Bầu cử năm 1965, Hoa Kỳ đã có những thành phần cơ bản mà hầu hết các nhà phân tích cho là cần thiết cho một nền dân chủ vận hành tốt. Tuy nhiên, các tổ chức theo dõi mức độ dân chủ trên khắp thế giới nhận thấy rằng những thành phần này đang giảm dần ở Hoa Kỳ. Để hiểu tại sao nền dân chủ của Mỹ đang suy giảm, chúng ta nên tập trung vào các sự kiện gần đây, chẳng hạn như cuộc suy thoái năm 2008 hoặc các đề án từ tiểu bang nhằm hạn chế quyền bầu cử. Nhưng làm như vậy có nguy cơ nhầm lẫn các triệu chứng của vấn đề với nguyên nhân của nó. Để đi sâu vào những nguyên nhân thực sự dẫn đến sự suy giảm của nước Mỹ, chúng ta nên xem xét những điều kiện đã góp phần vào sự sụp đổ của các nền dân chủ trong lịch sử. Trên thực tế, thời điểm hiện tại của chúng ta có những điểm tương đồng nổi bật với châu Âu trước Thế chiến thứ hai, khi số lượng các nền dân chủ cũng đang thu hẹp lại thay vì tăng lên. Năm 1959, Seymour Martin Lipset, một trong những nhà lý thuyết nổi bật nhất của thế kỷ 20 về dân chủ, đã xác định hai yếu tố chính rất quan trọng để giải thích sự khác biệt giữa các nền dân chủ ổn định và không ổn định trong thời kỳ này: phát triển kinh tế và tính hợp pháp chính trị. Khi làm như vậy, Lipset đã ngầm thách thức một số giả định cơ bản mà những “Quốc Phụ”đã đưa ra khi thành lập chính quyền Hoa Kỳ. Trong Luận cương Liên bang số 10, James Madison đã xác định sự cai trị của đám đông[1] và sự xuất hiện của các phe phái chính trị là nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại của nền dân chủ, và do đó, những người xây dựng Hiến pháp Hoa Kỳ đã cố gắng hạn chế quyền lực của các phe phái bằng cách thiết lập các phương thức kiểm soát và cân bằng trong hệ thống chính trị. Nhưng Lipset tin rằng những biện pháp này không đủ để ngăn chặn sự phân hóa và cai trị của đám đông. Ông cho rằng các phe phái mạnh sẽ thắng thế khi […]
Đảng đã thất bại
Một người trong Đảng đoạn tuyệt với Bắc Kinh Cai Xia (Thái Hà) là một nhà bất đồng chính kiến và học giả về lý luận chính trị của Trung Quốc. Bà đã giảng dạy cho các thành viên và quan chức cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), bao gồm các các người lãnh đạo cấp tỉnh và thành phố và các bộ trưởng, đồng thời là giáo sư đã nghỉ hưu của Trường Đảng Trung ương ĐCSTQ. Bà là người ủng hộ tự do hóa chính trị ở Trung Quốc và là người chỉ trích Tổng Bí thư ĐCSTQ Tập Cận Bình. Bà bị khai trừ khỏi ĐCSTQ vào tháng 8 năm 2020 vì đã chỉ trích ĐCSTQ dưới sự cai trị của ông Tập. Từ năm 2019, bà đã sống lưu vong ở Hoa Kỳ. KHI TẬP CẬN BÌNH LÊN CẦM QUYỀN VÀO NĂM 2012, tôi tràn đầy hy vọng cho Trung Quốc. Là giáo sư tại trường danh tiếng đào tạo các nhà lãnh đạo hàng đầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), tôi đủ hiểu biết về lịch sử để kết luận rằng đã quá muộn để Trung Quốc cải cách hệ thống chính trị. Sau một thập kỷ trì trệ, ĐCSTQ cần cải cách hơn bao giờ hết, và ông Tập, người từng tỏ ý có khuynh hướng cải tổ, có thể là người sẽ đi tiên phong trong công cuộc đó . Vào lúc đó, tôi đang ở giữa một giai đoạn kéo dài hàng thập kỷ vật lộn với ý thức hệ chính thống của Trung Quốc, ngay cả khi tôi đang phụ trách việc giáo hoá tư tưởng đào tạo huấn luyện cho các quan chức trong Đảng. Từng là một người nhiệt thành theo chủ nghĩa Marx, tôi đã từ bỏ chủ nghĩa Marx và ngày càng hướng tới tư tưởng Tây phương để tìm câu trả lời cho các vấn đề của Trung Quốc. Từng là một người tự hào bảo vệ chính sách chính thống, tôi bắt đầu nghiêng về tự do hóa. Từng là một đảng viên trung thành của ĐCSTQ, tôi đã âm thầm nghi ngờ sự chân thành của niềm tin của người dân đối với Đảng và sự quan tâm của Đảng đối với người dân Trung Quốc. Vì vậy, đáng lẽ tôi không ngạc nhiên khi thấy ông Tập không phải là nhà cải cách. Trong suốt nhiệm kỳ của ông, chế độ đã thoái hóa sâu hơn thành một chế độ quả đầu chính trị [cai trị bởi một nhóm người]nhằm nắm quyền lực bằng bạo lực và tàn nhẫn. Chế độ còn trở nên áp bức và độc tài hơn. Tệ nạn sùng bái cá nhân bao quanh ông Tập, người đã gia tăng sự kìm kẹp của Đảng đối với ý thức hệ và lãnh vực chật hẹp còn lại dành cho thảo luận chính trị và xã hội dân sự. Những người không sống ở Trung Quốc đại lục trong tám năm qua khó có thể hiểu được chế độ này đã trở nên tàn […]
Lòng dũng cảm của một y tá: Câu chuyện về Edith Cavell
Edith Cavell đã cứu một nghìn binh sĩ Đồng minh từ chiến trường Bỉ thoát khỏi nhà tù của Đức trong Thế Chiến thứ Nhất. Pháp phải đầu hàng Đức Quốc xã vào ngày 22 tháng 6 năm 1940. Một ngày sau, Adolf Hitler thân hành đi thăm thủ đô Paris đã bị chinh phục, nơi mà ông ta đích thân ra lệnh phá hủy hai đài tưởng niệm các anh hùng trong Thế chiến thứ nhất. Hôm nay — ngày 4 tháng 12 năm 2019 — là kỷ niệm 154 năm ngày sinh của một trong số những người đó, một người phụ nữ đáng được chú ý tên là Edith Cavell. Câu chuyện của cô là một ví dụ về bi kịch cổ xưa nhưng được lặp đi lặp lại từng phút ở một nơi nào đó trên thế giới: đó là một bi kịch về một cá nhân thực sự tốt đẹp mà cuộc sống bị một chính phủ tồi tệ nào đó bóp chết vì một mục đích vô nghĩa. Sinh năm 1865 tại Swardeston , Anh quốc, Edith Cavell đã 30 tuổi khi cô chọn y tá là nghề nghiệp cho chính mình . Nguồn cảm hứng đã đến với cô khi cô chăm sóc cho cha cô trong một trận ốm nặng, và nhờ đó ông đã bình phục. Trong quá trình huấn nghiệp, cô đã làm việc tại một số bệnh viện và sau đó cô đi vòng quanh miền Đông Nam nước Anh để điều trị cho các bệnh nhân tại nhà của họ về các cơn bệnh từ viêm ruột thừa đến ung thư. Một người viết tiểu sử nói rằng cô được nổi tiếng vì có một thiên phú bẩm sinh là có thể chú ý đến từng chi tiết nhỏ, và có một “tinh thần trách nhiệm cao độ”. Theo sự nài nỉ của một bác sĩ phẫu thuật ở Brussels, cô đến Bỉ vào năm 1907 và trở thành một nhân tố chủ lực trong việc thành lập trường điều dưỡng đầu tiên của Bỉ. Theo Kathy Warnes của trang web Windows to World History , Cavell đã sớm đào tạo các y tá có nguyện vọng cao cho ba bệnh viện, 24 trường học và 13 trường mẫu giáo ở Bỉ. Cô trở thành người phụ nữ đầu tiên của Viện Berkendael ở Brussels. “Cuộc chiến kết thúc mọi cuộc chiến” Rồi thì, những phát súng của tháng 8 năm 1914 báo trước sự bắt đầu của Thế chiến thứ nhất. Nó được cho là “cuộc chiến kết thúc mọi cuộc chiến tranh,” cuộc xung đột sẽ “làm cho thế giới an toàn cho nền dân chủ.” Tuy nhiên, nó đã được chứng minh là hoàn toàn trái ngược như vậy. Đó là một trong những cuộc xung đột vô nghĩa và hủy diệt nhất từng được bắt đầu bởi những kẻ ngu ngốc có quyền lực chính trị. Như tôi đã viết trong một bài luận về một anh hùng khác của thời đó, Siegfried Sassoon , Hơn một thế kỷ sau khi kết thúc, Thế chiến thứ nhất vẫn là một bí ẩn đối với người dân khắp nơi. Chúng ta học các lớp […]