fbpx

Search Results for: Luận cương 11

Luận cương 11

Luận cương 11 Lợi Điểm của Liên Bang trong Giao thương và Lực lượng Hải quân Alexander Hamilton Cùng Đồng bào Tiểu bang New York: Tầm quan trọng của Liên Bang, về phương diện thương mại, là một trong số những điểm mà có rất ít tranh cãi, và, trên thực tế, đã đưa đến sự đồng thuận rộng rãi trong số những người am hiểu vấn đề này. Điều này áp dụng trong cả trường hợp giao thương với các nước ngoài, lẫn trường hợp giao thương giữa các tiểu bang với nhau. Có nhiều dấu hiệu cho thấy rằng đặc tính mạo hiểm của nền giao thương Hoa Kỳ đã khiến cho nhiều cường quốc hải quân Âu Châu lo ngại. Họ sợ rằng chúng ta có thể xâm lấn vào lãnh vực hoạt động hàng hải thương thuyền của họ, vốn là trợ lực và căn bản cho thế lực hải quân của họ. Những cường quốc có thuộc địa tại Bắc Mỹ quan ngại về tiềm năng tương lai của quốc gia chúng ta. Họ tiên liệu những nguy cơ mà các tiểu bang kế cận của chúng ta sẽ đem đến cho các lãnh thổ thuộc địa của họ ở Bắc Mỹ, do sự kiện chúng ta có đầy đủ phương tiện để trở thành một cường quốc hải quân hùng mạnh. Những suy nghị như vậy sẽ khiến cho họ tìm cách chia rẽ chúng ta, cũng như ngăn cản chúng ta tích cực phát triển một ngành ngoại thương với các tầu thuyền của chúng ta. Chính sách đó sẽ giúp họ thực hiện được ba mục tiêu là ngăn cản chúng ta tác động vào ngành hàng hải của họ, giúp họ tiếp tục nắm giữ độc quyền trong lãnh vực hàng hải, và cắt cánh chúng ta để không cho phép chúng ta vượt lên một địa vị vĩ đại nguy hại đối với họ. Nếu những nỗ lực đó không tỏ ra thiếu thực tế, chúng ta có thể truy nguồn chính sách ngăn cấm ngành thương mại hàng hải của chúng ta đến tận cửa ngõ của các bộ phủ liên hệ của Âu Châu. Nếu chúng ta đoàn kết, chúng ta có thể chống lại những chính sách tỏ ra thiếu thân thiện đối với chúng ta ở trên nhiều phương diện. Những luật lệ ngăn chặn được thiết lập trên lãnh thổ của tất cả các tiểu bang sẽ giúp chúng ta ép buộc các nước ngoài phải cạnh tranh với nhau để có thể giao thương với chúng ta. Thể thức này sẽ không tỏ ra thiếu thực tế đối với những nước chuyên về hoạt động kỹ nghệ, để có thể đánh giá được đúng tầm quan trọng của một thị trường trên ba triệu người – và vẫn tiếp tục bành trướng – với đa số dân chúng đã và vẫn sẽ tiếp tục tập trung hoạt động vào nông nghiệp. Hơn nữa, họ cũng có thể thấy rằng hoạt động ngoại thương và ngành hàng hải thương thuyền của họ sẽ rất khác […]

Read more

Giới thiệu Đạo Đức Luận (Nicomachean Ethics)

Đỗ Khánh Hoan   Đi vào tác phẩm này, nếu là lần đầu, độc giả sẽ làm quen với nhà tư tưởng phong phú lạ kỳ sống cách chúng ta hai mươi bốn thế kỷ ở phương trời xa lạ tôi hân hạnh giới thiệu sau Platon, thày dạy của ông. Nếu biết ông rồi, độc giả khỏi bận tâm; nếu chưa biết ông,  độc giả cũng đừng thắc mắc mà vui lòng theo dõi lời kể mộc mạc, đơn sơ về thân thế cùng sự nghiệp, người người ngưỡng mộ, mến yêu. Thưa, ông là người Hy-lạp, tên Aristote, học trò Platon, thày dạy Alexander, xuất hiện trên trần gian 62 năm, rồi ra đi vĩnh viễn, không bao giờ trở lại, học giới Tây phương hơn hai ngàn năm coi là triết gia khai phóng đã mở đường vạch lối suy tư theo đó tư tưởng con người sau đó cất bước. Ông chào đời ở Stagira, thành phố thuộc Macedonia[1] cách Athens hơn ba trăm cây số về phía Bắc năm 384 tcn. Thân phụ là thân hữu đồng thời ngự y của vua Amyntas xứ Macedonia và ông nội Alexander. Theo lời truyền ông dường như cũng muốn trở thành hội viên gia đình y học, do nuôi dưỡng trong không khí y khoa như nhiều nhà tư tưởng đương thời tắm gội trong môi trường triết học; ông có cơ hội và động lực để phát triển tài năng, song khi phát triển chẳng hiểu sao tài năng lại nghiêng về khoa học; từ đó ông sẵn sàng trở thành người xây dựng khoa học, và là người xây dựng đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Sự nghiệp lừng lẫy, có một không hai, ấy thế mà tiểu sử người sau biết lại rất sơ sài, đôi khi có thể nói mâu thuẫn, bất nhất, chồng chéo, chắp nối, vá víu, thật khó tin. Chuyện kể lúc trẻ tuổi ông sống phóng đãng, gia nhập quân đội để khỏi chết đói, trở về Stagira hành nghề thày thuốc, năm ba mươi tuổi xuống Athens theo học Platon, nghiền ngẫm triết học. Chuyện kể năm mười tám tới Athens, như biết bao thanh niên hiếu học cùng trang lứa muốn tiến thân trên đường đời gập ghềnh, trắc trở, ông chân thành thụ giáo đại sư, thời gian khá lâu; dẫu thế ngay cả chuyện có vẻ thực này, theo G. Grote trong Aristotle (1872) và E. Zeller trong Aristotle and the Earlier Peripa-tetics (Aristote và triết sinh tiêu dao buổi đầu, 1897), người sau vẫn thấy bóng dáng chàng trai khinh suất, sống hấp tấp, liều lĩnh. Tuy nhiên, độc giả sẽ hài lòng khi thấy trong cả hai chuyện bông hoa thác loạn cuối cùng hạ neo cắm sào dừng thuyền trong bến bờ yên tịnh, miệt mài trau giồi trí thức giảng dạy trong Học Viện Platon sáng lập. Chuyện kể thời gian ở Athens ông mở trường dạy học, đặc biệt môn hùng biện nhằm cạnh tranh với Isocrates, diễn giả lừng danh đương thời; trong số học sinh có Hermias […]

Read more

Luận cương 10

Luận cương 10 Liên bang là một bảo đảm chống lại chia rẽ nội bộ và nội chiến James Madison   22 tháng 11, 1787 Cùng đồng bào Tiểu bang New York, Khả năng hoá giải và kiểm soát bạo lực của phe phái là một trong những lợi điểm của một Liên bang được tổ chức tốt đẹp, và điều này cần phải được giải thích rõ ràng hơn. Những ai cổ võ cho [sự thiết lập] một chính quyền của dân không thể không lo lắng cho đặc tính và số phận của loại chính quyền này khi bản năng tự nhiên có khuynh hướng dẫn đến nguy cơ bạo lực do phe phái gây nên. Do đó, họ không thể không để tâm tìm cách hóa giải nguy cơ đó nhưng không để vi phạm đến những nguyên tắc mà họ cố gắng bảo vệ. Tình trạng bất ổn, thiếu công bằng và rối loạn trong sinh hoạt của các hội đồng nhân dân vẫn thường là căn bệnh hiểm nghèo hủy hoại chính quyền của dân ở khắp mọi nơi. Đây cũng là đề tài tranh cãi mà kẻ thù của tự do thường vận dụng để chống đối hình thức tổ chức chính quyền này. Những cải tiến đáng giá do Hiến pháp Mỹ thực hiện trên các mô hình chính quyền phổ thông, cả cổ và hiện đại, chắc chắn không thể được ngưỡng mộ quá nhiều; nhưng sẽ là một sự thiên vị không chính đáng, khi cho rằng những cải tiến này không thực sự ngăn chặn được mối nguy hiểm này, như mong muốn và mong đợi. Những lời than phiền đến từ phía các công dân đức cao đạo trọng, đồng thời cũng là những người yêu chuộng tự do và dân chủ, đều cho rằng chính quyền này quá bất ổn; quyền lợi chung đã không được lưu tâm các phe phái tranh chấp lẫn nhau. Nhiều biện pháp được quyết định không phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng công bằng và quyền lợi của thiểu số, mà ngược lại do sự điều hướng của thế lực áp đảo từ đa số trấn áp dựa trên quyền lợi của họ. Mặc dầu chúng ta mong rằng những phê phán này thiếu căn cứ, nhưng bằng chứng cụ thể không cho phép chúng ta phủ nhận trong một giới hạn nào đó các lời than phiền này đã phản ảnh sự thật. Chúng ta có thể thành tâm cho rằng một số những khó khăn gặp phải đã bị quy trách sai lầm nơi cách thức vận hành của chính quyền; nhưng đồng thời chúng ta phải nhìn nhận chưa tìm đủ mọi nguyên nhân giải thích cho những khó khăn, đặc biệt là về sự hồ nghi của quần chúng đối với sinh hoạt công cộng và sự báo động vi phạm quyền tư hữu. Cả hai hình thức phản đối nói trên đều được nghe thấy từ cả hai bờ đại dương trên lục địa Hoa Kỳ. Nếu không phải tất cả thì một phần lớn các […]

Read more

Luận cương Liên bang 9

Liên bang là một Bảo đảm chống lại Chia rẽ Nội bộ và Nội chiến Alexander Hamilton      21 tháng 11, 1787 Cùng đồng bào Tiểu bang New York, Một liên bang vững bền sẽ ngăn cản những chia rẽ nội bộ và hiểm họa nội chiến, đảm bảo cho nền hòa bình và tự do của các tiểu bang. Đọc lại lịch sử của những nền cộng hòa Hy Lạp và Ý Đại Lợi với những đặc tính hẹp hòi, chúng ta sẽ không khỏi cảm nhận niềm kinh hãi và chán ghét những âm mưu liên tục đã xẩy ra. Những chuỗi nội loạn liên tục đã luôn luôn đặt họ trong tình trạng giằng co giữa những thái cực của độc tài và bạo loạn. Những thời kỳ yên bình hiếm có, thường chỉ là những những điểm tương phản ngắn hạn trước những trận bão tố tiếp theo sau. Chúng ta thường nuối tiếc những khoảng thời gian yên bình ngắn ngủi đó, vì nghĩ rằng những cảnh tượng tốt đẹp trước mắt chúng ta sẽ nhanh chóng bị tràn ngập bởi những trận cuồng phong nội loạn và tranh chấp chính trị tiếp theo. Chúng ta sẽ luyến tiếc những giây phút huy hoàng nổi lên từ những đổ vỡ, mặc dầu những giây phút đó có thể hấp dẫn chúng ta với một hào quang ngắn ngủi và mơ hồ, chúng cũng sẽ tự nhắc nhở những khuyết điểm của chính quyền sẽ làm biến đổi phương hướng và làm lu mờ những khả năng đáng được đề cao đó. Từ những bạo loạn đã phá hủy lịch sử của những nền cộng hòa đó, những người cổ võ cho nền độc tài đã tìm ra những luận cứ, không những để chống lại hình thức tổ chức chính trị cộng hòa, mà còn chống lại chính những nguyên tắc về tự do của con người. Những người này còn than phiền tất cả các thể chế tự do đều đi ngược lại với trật tự xã hội, và họ cũng chống lại những người cổ võ cho những thể chế loại này. Tuy nhiên, rất may cho nhân loại, trong một vài trường hợp huy hoàng, một số những cơ cấu chính quyền được xây dựng trên căn bản các quyền tự do đã đánh đổ luận cứ ngụy biện của những người đó. Và tôi tin tưởng rằng Hoa Kỳ sẽ trở thành một nền móng vững chắc để xây dựng những công trình khác, không kém rực rỡ, để trở thành một thí dụ chứng tỏ sự sai lầm của những người này. Tuy nhiên cũng không thể chối cãi hình ảnh mà những người đó đã dùng để phác họa những nét chính của một nền cộng hòa chỉ là việc sao chép lại những nền cộng hòa Hy Lạp và Ý Đại Lợi. Nếu không tìm được những mẫu tổ chức tốt đẹp hơn cho hình thức chính quyền cộng hòa thì những người yêu chuộng tự do đã loại bỏ hình thức tổ chức chính quyền này vì […]

Read more

Luận cương Liên bang 8

Luận về Hậu quả của sự Tranh chấp giữa các Tiểu bang (Tiếp theo) Alexander Hamilton   20 tháng 11, 1787 Cùng đồng bào Tiểu bang New York, Hãy xem đây là một sự thật đã được kiểm chứng, đó là các tiểu bang sẽ bị phân chia, hay một số liên minh mới sẽ được thiết lập sau khi liên hiệp tiểu bang tan rã, những thực thể mới này sẽ phải chịu đựng những thăng trầm của chiến tranh và hòa bình, về tình trạng thân hữu hay thù nghịch như đã được trải nghiệm bởi các nước lân bang không được đoàn kết dưới một chính quyền. Chúng ta hãy thử thực hiện một cuộc điều nghiên chính xác về những hậu quả mà tình trạng đó mang lại. Chiến tranh giữa các tiểu bang trong giai đoạn đầu của tình trạng chia rẽ đó sẽ đưa đến những thảm trạng lớn hơn là tình trạng chia rẽ xảy ra tại các nước đã có cơ chế quân sự vững chắc từ lâu đời. Các cơ chế quân sự vững mạnh được xây dựng tại lục địa Âu Châu, dầu có làm tổn hại đến tự do và kinh tế, các cơ chế quân sự đó, tuy thế, cũng khiến cho những mưu đồ xâm lược bất ngờ trở nên khó thực hiện được, và ngăn cản được những tàn phá nhanh chóng thường báo hiệu cho tình trạng dẫn đến chiến tranh. Việc xây dựng công trình phòng thủ cũng đóng góp vào mục tiêu tương tự. Được bao bọc bởi những dẫy công trình phòng thủ, các nước Âu Châu đã ngăn cản được những mưu đồ tấn công lẫn nhau. Nhiều nước đã phí phạm phương tiện trong những chiến dịch tiêu diệt vài tiền đồn để có thể xâm nhập vào lãnh thổ của kẻ địch. Trở ngại tương tự thường xẩy ra qua nhiều giai đoạn với kết quả là làm tiêu hao sức lực và suy giảm mức độ tấn công của kẻ xâm lược. Trước đây, một đoàn quân xâm lược có thể tiến vào nội địa của nước lân bang gần như ngay sau khi nước này nhận được tin tức tình báo về cuộc xâm lăng đó. Nhưng ngày nay, một lực lượng quân sự tương đối nhỏ hơn nhưng có kỷ luật cao, chú trọng đến phòng thủ, với sự trợ giúp của các tiền đồn, cũng có khả năng ngăn cản và sau đó bẻ gẫy được những nỗ lực của một lực lượng mạnh hơn. Lịch sử chiến tranh của phần thế giới này không còn là lịch sử của những nước bị trấn áp và các đế quốc bị lật đổ, mà là lịch sử của những thành phố bị chiếm đóng và được giải phóng, những trận đánh không đưa đến kết quả quyết định nào, những cuộc triệt thoái có lợi hơn những chiến thắng, và những cố gắng vượt bực nhưng không đưa đến thành quả nào. Tại đất nước này, tình hình sẽ bị đảo ngược hoàn toàn. Sự ganh […]

Read more

Giới thiệu Đạo đức Luận – Aristote

Đỗ Khánh Hoan  Đi vào tác phẩm này, nếu là lần đầu, độc giả sẽ làm quen với nhà tư tưởng phong phú lạ kỳ sống cách chúng ta hai mươi bốn thế kỷ ở phương trời xa lạ tôi hân hạnh giới thiệu sau Platon, thày dạy của ông. Nếu biết ông rồi, độc giả khỏi bận tâm; nếu chưa biết ông,  độc giả cũng đừng thắc mắc mà vui lòng theo dõi lời kể mộc mạc, đơn sơ về thân thế cùng sự nghiệp, người người ngưỡng mộ, mến yêu. Thưa, ông là người Hy-lạp, tên Aristote, học trò Platon, thầy dạy Alexander, xuất hiện trên trần gian 62 năm, rồi ra đi vĩnh viễn, không bao giờ trở lại, học giới Tây phương hơn hai ngàn năm coi là triết gia khai phóng đã mở đường vạch lối suy tư theo đó tư tưởng con người sau đó cất bước. Ông chào đời ở Stagira, thành phố thuộc Macedonia[1] cách Athens hơn ba trăm cây số về phía Bắc năm 384 tcn. Thân phụ là thân hữu đồng thời ngự y của vua Amyntas xứ Macedonia và ông nội Alexander. Theo lời truyền ông dường như cũng muốn trở thành hội viên gia đình y học, do nuôi dưỡng trong không khí y khoa như nhiều nhà tư tưởng đương thời tắm gội trong môi trường triết học; ông có cơ hội và động lực để phát triển tài năng, song khi phát triển chẳng hiểu sao tài năng lại nghiêng về khoa học; từ đó ông sẵn sàng trở thành người xây dựng khoa học, và là người xây dựng đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Sự nghiệp lừng lẫy, có một không hai, ấy thế mà tiểu sử người sau biết lại rất sơ sài, đôi khi có thể nói mâu thuẫn, bất nhất, chồng chéo, chắp nối, vá víu, thật khó tin. Chuyện kể lúc trẻ tuổi ông sống phóng đãng, gia nhập quân đội để khỏi chết đói, trở về Stagira hành nghề thày thuốc, năm ba mươi tuổi xuống Athens theo học Platon, nghiền ngẫm triết học. Chuyện kể năm mười tám tới Athens, như biết bao thanh niên hiếu học cùng trang lứa muốn tiến thân trên đường đời gập ghềnh, trắc trở, ông chân thành thụ giáo đại sư, thời gian khá lâu; dẫu thế ngay cả chuyện có vẻ thực này, theo G. Grote trong Aristotle (1872) và E. Zeller trong Aristotle and the Earlier Peripa-tetics (Aristote và triết sinh tiêu dao buổi đầu, 1897), người sau vẫn thấy bóng dáng chàng trai khinh suất, sống hấp tấp, liều lĩnh. Tuy nhiên, độc giả sẽ hài lòng khi thấy trong cả hai chuyện bông hoa thác loạn cuối cùng hạ neo cắm sào dừng thuyền trong bến bờ yên tịnh, miệt mài trau giồi trí thức giảng dạy trong Học Viện Platon sáng lập. Chuyện kể thời gian ở Athens ông mở trường dạy học, đặc biệt môn hùng biện nhằm cạnh tranh với Isocrates, diễn giả lừng danh đương thời; trong số học sinh có Hermias gia […]

Read more

CÁ TÍNH CỦA PUBLIUS: TÁC GIẢ CỦA LUẬN CƯƠNG LIÊN BANG (Federalist Papers)

Nông Duy Trường Ngày nay chúng ta đều biết Luận cương Liên bang, gồm 85 luận cương do Alexander Hamilton, James Madison và John Jay trứ tác dưới cùng một bút hiệu “Publius,”[1] trong khoảng thời gian từ tháng Mười 1787 đến tháng Năm, 1788.[2] Người dân Mỹ không biết căn cước thực của Publius mãi cho đến khi những Luận cương này xuất hiện dưới ấn bản tiếng Pháp vào năm 1792. Mặc dầu ta không thể biết được công chúng lúc đó có nghi ngờ rằng Publius có phải là một người hay không, nhưng âu cũng là điều hợp lý khi đặt câu hỏi liệu những tính cách khác nhau của ba tác giả này có được phản ảnh qua bài viết của họ? Để trả lời câu hỏi này trước hết ta sẽ xem xét cá tính—tổng hợp của gia thế, đức tính, và lối sống của các tác giả—được thể hiện như thế nào qua văn phong; và thứ hai, vì trong số ba tác giả và 85 luận cương này, Hamilton là tác giả viết nhiều nhất (51 bài), Madison (29 bài) và Jay (5 bài), ta sẽ tập trung vào những bài do Hamilton và Madison viết. Hamilton xuất thân là dân thành thị và là một di dân, ông không có quan hệ gì với bất cứ tiểu bang nào. Ông cũng là một người quốc gia nhiệt thành ủng hộ quan điểm xây dựng một chính quyền quốc gia (trung ương) mạnh. Madison, ngược lại, xuất thân từ gia đình địa chủ, danh gia thế phiệt của tiểu bang Virginia, có thiên hướng trung thành với quyền của tiểu bang. Không những khác biệt nhau về xuất thân và gia thế, hai tác giả còn khác nhau xa về tính tình.[3] Hamilton là một người hướng ngoại, nhiệt thành, đầy năng lực và cảm xúc, trong khi đó Madison là một người hướng nội, kín đáo và dè dặt.[4] Với những sự khác biệt về tính tình và xuất thân như vậy, ta có thể nghĩ rằng những bài xã luận của họ cũng sẽ phản ánh sự khác biệt về cá tính. Thế nhưng, trái lại, khởi đi từ Luận cương đầu tiên đến luận cương cuối cùng, bắt đầu với Luận cương thứ nhất qua đó Hamilton trình bày những điểm chính sẽ được thảo luận, cả hai tác giả đều thể hiện sự hài hoà trong lý luận và văn phong. Trong 14 luận cương đầu tiên, hai tác giả thay phiên nhau giải thích cho công chúng những lợi điểm của bản hiến pháp mới, từ việc duy trì an ninh nội bộ đến sự ổn định mậu dịch với nước ngoài. Sau Luận cương số 9 do Hamilton viết ngày 21 tháng 11, 1787, Madison viết tiếp Luận cương số 10 vào ngày 22 tháng 11; đây là một trong vài luận cương nổi tiếng nhất trong 85 bài (đây cũng là luận cương đầu tiên do Madison chấp bút). Madison tiếp tục chủ đề Hamilton đã trình bày ở Luận cương 9—“Một liên bang bền […]

Read more

Cuộc Đàm Luận giữa Khổng Tử và Tiến Sĩ John Dewey

Dr. Lih-Ching Chen Wang LGT: Một cuộc đàm luận lý thú giữa Khổng Tử và John Dewey, dĩ nhiên trong tưởng tượng, nhưng qua đó tác giả đã nêu lên được những điểm tương đồng cũng như khác biệt trong triết lý giáo dục giữa hai nhà giáo dục hàng đầu của Trung Hoa và Hoa Kỳ. Điều thú vị là những lời đối đáp của Khổng Tử đều rút ra từ các sách Đại Học và Luận Ngữ.[1] Thời gian: 7 tháng 12, 1951. Không gian: Quê hương của Khổng Tử, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Hoa Khổng Tử: Cung ­Thỉnh, Tiến sĩ Dewey! “Có những bằng hữu ham mộ đạo lý, nghe tiếng mình là người học cao đức lớn, chẳng ngại đường xa đến viếng mình, há không lấy đó làm vui sao?”[2] Dewey: Thưa Phu Tử, thật là vui thú lắm. Đây cũng là một sự thay đổi trong những việc thường ngày của tại hạ tại Mỹ. Khổng Tử: Theo những đệ tử của ta nghiên cứu thì ngài là một trong những triết gia và nhà giáo dục có ảnh hưởng lớn nhất của Mỹ quốc. Ta rất hân hạnh được ngài ghé thăm tệ xá. Dewey: Xin mượn lời của Phu Tử: “Kẻ nào miệng nói lời hoa mỹ, còn mặt mày thì trau chuốt, hình dạng thì kiểu cách, áo quần thì lòe loẹt, kẻ ấy hẳn kém lòng nhân.”[3] Ha ha…Xin đùa Sư Phụ một chút. Khổng Tử: Ta cũng xuýt nữa thì nổi giận rồi đó. “Bậc quân tử nếu chẳng tự trọng, thì chẳng được oai nghiêm, người ta không kính nể, rồi ra sự học vấn của mình không được kiên cố…Chẳng nên làm bạn với kẻ chẳng như mình.”[4] Ngay cả đệ tử của ta là Tăng Tử còn nói: “Hằng ngày ta tự xét mình,…, làm việc với ai ta có hết lòng hay chăng?”[5] Dewey: Xin cám ơn Sư Phụ. Ngài nghiêm trang quá, không có tính khôi hài tí nào. Vậy thì tại hạ xin hỏi ngài một chuyện thành thật, nghiêm túc: Đại học là cái gì? Nghĩa là, mục đích của đại học là để làm gì? Khổng Tử: Đại học dạy như vầy: “Trước hết phải làm sáng tỏ cái đức của mình, rồi dùng cái đức đó cải cách cho mọi người, rồi nên nhắm mức trọn lành mà theo và ở yên nơi mức ấy.”[6] Dewey: Xin ngài khai triển thêm. Khổng Tử: “Các vị vua thuở xưa muốn làm cho cái đức của mình tỏ sáng ra trong thiên hạ, trước phải lo sửa trị nước mình. Muốn sửa trị nước mình, thì phải tề gia trước. Muốn tề gia thì phải tu thân trước. Muốn tu thân thì phải làm cho ý mình trở nên thành thật. Muốn làm cho ý mình trở nên thành thật phải có tri thức chu đáo. Muốn có tri thức chu đáo ắt phải nghiên cứu sự vật.”[7] Dewey: Đúng vậy, tri thức được mở rộng nằm ở chỗ nghiên cứu sự vật. Thế còn gì nữa, thưa Phu […]

Read more

Đạo Đức và Luân Lý Đông Tây

Đạo Đức và Luân Lý Đông Tây Phan Chu Trinh (Bài diễn thuyết của cụ Phan Chu Trinh diễn tại nhà hội Việt Nam ở Sài gòn, đêm 19.11.1925)(*) Thưa các anh em đồng bào! Anh em đồng bào thấy tôi là người tuổi tác, ở lâu năm bên Pháp về, anh em đồng bào có lòng quá yêu, nhường cho tôi bước đầu lên diễn đàn nhà hội “Việt Nam” ta đây, để tỏ ý kiến là hy vọng của tôi đối với xã hội Việt Nam ta từ ấy đến giờ, thì tôi rất lấy làm cảm tạ vô cùng. Không nói, tưởng anh em đồng bào cũng đã biết tôi vì quyền lợi của dân tộc Việt Nam mà phải lăn lóc đến mười tám năm nay. Trong khoảng 18 năm đó (hơn 14 năm ở Pháp) thường mong mỏi được gặp mặt anh em đồng bào cố hương, đặng tỏ chút ý kiến về những sự đã được nghe thấy trong khi tôi trôi nổi nơi đất khách quê người. Không ngờ giấc mộng được thành, trở về nơi chôn nhau cắt rốn, giáp mặt anh em đông đủ thế này. Tôi mừng quá. Thưa anh em đồng bào, nay tôi đã được gặp anh em đông đủ ở đây, tôi xin anh em cho phép tôi được giải bày đôi chút ý kiến về “Đạo đức luân lý Đông Tây” mà mong rằng anh em để ý hiểu cho. Đáng lẽ theo thời nay, không thiếu chi vấn đề rất quan trọng làm rung động các dân tộc trên toàn cầu, tôi có thể nói chuyện cùng anh em được, thế mà tôi lại không lựa đến mấy vấn đề mới mẻ ấy, chỉ chọn lấy cái vấn đề “Đạo đức và luân lý” rất tầm thường mà rất cũ kỹ thế này. Tôi chọn lấy vấn đề này, là vì tôi tưởng rằng từ xưa đến nay bất cứ dân tộc nào, bất luận quốc gia nào, dầu vàng, dầu trắng, dầu yếu, dầu mạnh, đã đứng cạnh tranh hơn thua với các dân tộc trên thế giới thì chẳng những thuần nhờ sức mạnh thôi, mà phải nhờ cái đạo đức làm gốc nữa; nhất là dân tộc nào bị té nhào xuống, nay muốn đứng lên khỏi bị người đè lên trên thì lại cần có một đạo đức vững chặt hơn dân tộc đang giàu mạnh hơn mình. Câu chuyện đạo đức tôi sẽ giải ra sau này không cao xa gì, mà cũng không như câu chuyện đạo đức các ông thuộc về phái thủ cựu thường đã nói. Đạo đức đây chỉ là: “Phàm đã là một dân tộc sinh tồn trên hoàn vũ, đã có một lịch sử chính đáng, thì phải giữ gìn những sự vẻ vang trong lịch sử của dân tộc mình”, nghĩa là giữ lấy những đức hay tính tốt mấy trăm nghìn năm ông cha để lại, khiến cho nuớc nào dân tộc nào đối với mình cũng đem lòng kính trọng. Nói tóm lại là một cái tính chất của một dân […]

Read more

Tự Do Luận

LỜI GIỚI THIỆU Tự Do Luận là một trong hai cuốn sách tạo nên rất nhiều tranh cãi trong học giới khi ra đời trong thế kỷ thứ mười chín. Cuốn thứ nhất là Tuyên ngôn Cộng sản do Karl Marx viết năm 1848 và lý thuyết cộng sản ngày nay đã bị chứng minh là một chủ thuyết không tưởng và hầu như đã đi vào quên lãng. Tự Do Luận, trái lại, được John Stuart Mill viết năm 1858 và đã tạo nên biết bao cuộc tranh luận, ủng hộ cũng có mà chỉ trích cũng có cho đến tận hôm nay. Tác phẩm này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nước Nhật khi canh tân đã tìm cách dịch những tác phẩm về khoa học, văn học, và triết học của Tây phương sang tiếng Nhật. Riêng Tự Do Luận đã được dịch sang tiếng Nhật, ít nhất là tám lần qua các năm 1871, 1895, 1914, 1925, 1946, 1947, 1967, và 1971 (Trần Văn Thọ, 2011). Tác phẩm Tự Do Luận gồm có năm chương. Trong chương Dẫn nhập Mill xác định đề tài của tiểu luận là tác phẩm này chỉ bàn về tự do xã hội và dân sự cùng với vấn đề muôn thuở là xã hội có thể áp đặt một cách hợp pháp quyền lực nào trên những cá nhân mà thôi. Lược qua sự phát triển của khái niệm tự do từ thời cổ Hy-lạp, La-mã, và Anh quốc, Mill lập luận rằng tự do có nghĩa là  “một sự che chở đối với bạo quyền của giới cai trị. Giới cai trị và kẻ bị trị đương nhiên ở vào những vị trí đối nghịch nhau.” Quyền lực chính trị được coi là điều xấu xa nhưng cần thiết (le mal necessaire), quan trọng nhưng cũng rất nguy hiểm; cho nên, người dân phải tìm cách giới hạn quyền lực chính trị bằng cái gọi là “những quyền tự do chính trị.” Nếu người lãnh đạo chính trị vi phạm những quyền tự do này, người dân có quyền nổi lên để chống lại. Còn một phương pháp khác là dùng những giới hạn của hiến pháp để cho những quyết định của người lãnh đạo phải có sự đồng ý của nhân dân hay qua đại biểu của họ. Sự tiến hóa này dẫn đến việc thành lập chính quyền theo đại biểu, có nghĩa là viên chức chính quyền được bầu ra và có thể bị triệu hồi  “viên chức khác nhau của Quốc Gia phải là những người được họ chọn hoặc bầu ra để làm việc, những người được họ ủy quyền mà họ muốn bãi chức lúc nào cũng được. Họ cho rằng, chỉ với cách đó, họ mới có thể an tâm là không bao giờ bị chính quyền hiếp đáp.” Tuy nhiên, Mill nhận thức được rằng còn có một sự chuyên chế khác không kém nguy hiểm; đó là sự chuyên chế của số đông (tyranny of the majority): những từ ngữ như “chế độ tự trị” hay “quyền của […]

Read more