fbpx

Search Results for: luận cương 9

Hiến Pháp Trị Là Gì?

Lý Ba Perspectives, bộ 1, số 6 Trong bài luận trước, tôi đã bàn về ý nghĩa của pháp trị. Bắt đầu từ bài này, tôi sẽ phác họa những định chế khiến cho pháp trị khả thi. Đặc biệt, trong tiểu luận này, tôi sẽ thảo luận về khái niệm quan trọng trong việc nghiên cứu pháp trị, đó là lý thuyết hợp hiến tự do. Trong bài kế (sẽ phát hành trên số tháng 8 của Perspectives), tôi sẽ phân tích quan hệ giữa lý thuyết hiến pháp trị và pháp trị. Lý thuyết hợp hiến tự do là gì? Để trả lời câu hỏi này, trước hết chúng ta phải trả lời một câu hỏi cơ bản: hiến pháp là gì? Hiến pháp là “một hợp đồng giữa chính quyền và người dân theo đó quyền cai trị của chính quyền do người dân trao cho” (theo Tự Điển Luật Pháp của Black). Hiến pháp đề ra hình thể của chính quyền. Nó chỉ định mục đích của chính quyền, quyền hạn của mỗi nha, bộ trong chính quyền, quan hệ chính quyền và xã hội, quan hệ giữa các cơ quan trong chính quyền, và những giới hạn của chính quyền. Lý thuyết tự do cổ điển cho rằng quan hệ giữa chính quyền là khế ước xã hội to lớn. Theo lý thuyết này thì, trong một đất nước dân chủ tự do, hiến pháp là bộ phận chủ yếu của khế ước xã hội này; nó chính là khế ước cơ bản giữa chính quyền và xã hội dân sự. Chúng ta còn có thể xem hiến pháp như bảng liệt kê công tác. Trong quốc gia dân chủ tự do, toàn thể nhân dân thuê một số viên chức để điều hành chính quyền lo cho các lợi ích công cộng, và hiến pháp chính là hợp đồng công việc và bảng liệt kê công tác. Dĩ nhiên, các luật lệ khác cũng là bảng liệt kê công tác cho chính quyền, nhưng hiến pháp là tối cao. Hiến pháp chính là bản hướng dẫn cho công việc lập pháp và cho việc diễn giải pháp luật. Trong hệ thống hiến pháp tự do, còn một điểm khác biệt quan trọng giữa hiến pháp và luật pháp thông thường. Luật pháp thông thường có thể được cơ quan lập pháp quốc gia sửa đổi hoặc hủy bỏ, hay bị cơ quan tư pháp tuyên bố là bất hợp pháp hoặc bất hợp hiến, nhưng cơ quan lập pháp quốc gia không có quyền đơn phương sửa đổi hoặc hủy bỏ hiến pháp, và cơ quan tư pháp không có quyền để tuyên bố hiến pháp là bất hợp pháp. Thí dụ như tại Hoa Kỳ, Bản Hiến Pháp chỉ có thể được sửa đổi sau khi ba phần tư cơ quan lập pháp của các tiểu bang chấp thuận, hoặc sau khi các hội nghị hiến định tại ba phần tư các tiểu bang chấp thuận. Cơ quan lập pháp liên bang không thể đơn độc thay đổi Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ. […]

Read more

Tác Động của WTO Đến Quy Tắc Thượng Tôn Pháp Luật tại Trung Hoa

Martin G. Hu Nam Chi chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng AnhLGT. Nay đến lượt Việt Nam được gia nhập WTO. So sánh với Trung Hoa, Việt Nam có nhiều điểm tương đồng về chính trị, kinh tế, và xã hội. WTO ảnh hưởng đến Trung Hoa như thế nào, thì cũng rất có thể ảnh hưởng đến Việt Nam như vậy. Tiểu luận dưới đây của Martin Hu, một luật gia Trung Hoa có tên tuổi tại Hoa Kỳ và Trung quốc, nhận định về ảnh hưởng của WTO tới cải cách luật pháp tại Trung Hoa. Không còn nghi ngờ gì nữa, Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) sẽ chính thức đưa Trung quốc gia nhập hoàn toàn vào hệ thống mậu dịch thế giới. Không giống bất cứ thỏa ước nào khác, đặc điểm duy nhất của WTO là nó có một hệ thống giải quyết tranh chấp vững vàng, có tên gọi là Ban Giải Quyết Tranh Chấp (the Dispute Settlement Body (DSB), được WTO giao quyền phân xử những tranh chấp giữa các nước hội viên và quan trọng hơn nữa là thi hành những phán quyết đã đưa ra. Cứ xem từ trước tới nay nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chưa hề chấp nhận quyền tài phán của một cơ quan quốc tế nào, nói chi tới việc thi hành những phán quyết bất lợi cho họ, nay họ chịu chấp nhận Cơ Quan Giải Quyết Tranh Chấp (DSB) thực quả là một cam kết lớn lao. Hiểu như thế, WTO đã có một tác động chưa từng có tới quy tắc Thượng Tôn Luật Pháp. Nguyên tắc pháp lý căn bản của WTO Mặc dù rất nhiều nguyên tắc có thể trích dẫn từ thỏa ước của WTO, những điều sau đây là nổi bật nhất: Giảm mức thuế quan, một điều khoản hiển nhiên khỏi giải thích. Thương mại công bình, cấm xuất khầu phá giá hoặc được nhà nước trợ cấp (Các điều khoản 6 và 16 của Hiệp Định Chung Về Thuế Quan và Thương Mại (GATT) Tính trong sáng, đòi hỏi các nước hội viên phải ban hành và bảo vệ một cách minh bạch các luật lệ, qui ước, quyết định tư pháp và hành chính liên quan tới thương mại. Chống đối xử phân biệt, bao hàm nguyên tắc đối xử đồng đều, cấm việc xem các sản phẩm ngoại nhập tệ hơn các sản phẩm nội hóa của người trong nước (nationals) về phương diện thuế má, lệ phí, cũng như các luật lệ và điều kiện khác (điều khoản thứ 13 của GATT). Đó chính là viên đá nền tảng của WTO vốn gây nhiều tranh cãi giữa các nước hội viên của WTO. Tác động của WTO Tất cả những nguyên tắc pháp lý trên đây của WTO sẽ góp phần hình thành và phát triển tinh thần Thượng Tôn Luật Pháp ở Trung quốc. Một hậu quả trực tiếp của việc giảm thuế quan là tăng cường giao dịch thương mại giữa Trung quốc và thế giới. Tất cả các […]

Read more

Pháp Trị Là Gì?

Bo LI (Lý Ba) “Chúng ta được tự do vì chúng ta sống với dân luật” –Charles de Secondat Montesquieu– “Pháp trị” là một trong những khái niệm luôn được nói tới nhưng hiểu biết rất ít trong truyền thông đại chúng và đối thoại hàng ngày ở Trung Quốc hiện nay. Vậy pháp trị là gì? Tầm mức quan trọng của nó ra sao? Phải chăng có pháp trị là không có “nhân trị”? Pháp trị có những điều kiện thể chế và hàm lượng văn hóa gì? Làm sao để chúng ta đạt được nền pháp trị? Tôi dự định giải đáp những thắc mắc vừa nêu với một loạt bài tiểu luận. Trong bài này, tôi sẽ chú trọng đến ý nghĩa và giá trị của pháp trị. Trong tiểu luận kế (phát hành số tháng 6 của Perspectives), tôi sẽ bàn tới vấn đề thực thi pháp trị. Khởi đầu, tôi muốn lưu ý rằng ngày nay khi nói đến “pháp trị”, chúng ta nói đến một vấn đề hoàn toàn khác hẳn với quan niệm “pháp trị” như một phương tiện của các pháp gia thời thượng cổ trong lịch sử Trung Hoa. Ngày nay khi nói tới “pháp trị”, chúng ta muốn mô tả bộ phận chủ yếu của nền trật tự xã hội và chính trị tìm thấy tại Hoa Kỳ và các nước tự do dân chủ thời đại hiện tại. Nói cách khác, bàn tới “pháp trị”, chúng ta muốn nói tới một truyền thống Tây phương phát xuất từ cộng hòa La Mã và đã được phát triển toàn vẹn bởi thuyết hiến pháp trị tự do, mà đặc điểm của nó, qua lời của Max Weber, là “ưu thế của luật pháp”. Khác biệt giữa “dụng pháp trị” [*] và “pháp trị” thật quan trọng. Sống dưới “dụng pháp trị,” luật pháp là một công cụ của chính quyền, và nhà cầm quyền ở trên pháp luật. Trái hẳn lại, sống dưới “pháp trị,” không một ai vượt qua luật pháp, kể cả chính quyền. Cốt lõi của “pháp trị” là một cơ chế luật pháp độc lập. Theo pháp trị, quyền hạn của luật pháp không lệ thuộc quá nhiều vào tính chất phương tiện của luật, mà vào mức độ độc lập của luật, tức là tùy vào mức độ khác biệt và biệt lập giữa pháp luật với những cơ cấu tiêu chuẩn khác như chính trị và tôn giáo. Là một trật tự luật pháp độc lập, pháp trị có ít nhất ba ý nghĩa. Thứ nhất, pháp trị là công cụ điều chỉnh quyền lực của chính phủ. Thứ hai, pháp trị là sự bình đẳng trước pháp luật. Thứ ba, pháp trị là thẩm quyền tài phán phải tuân theo thủ tục tố tụng đã được ấn định trước. Chúng ta sẽ bàn về từng ý nghĩa này của pháp trị. Thứ nhất, là công cụ điều chỉnh quyền lực, pháp trị có hai nhiệm vụ: giới hạn sự chuyên quyền và lạm quyền của chính phủ, đồng thời khiến cho chính phủ […]

Read more

Pháp Trị

Lời Giới Thiệu Thuật ngữ pháp trị ngày càng được sử dụng rộng rãi trên các diễn đàn và tổ chức quốc tế, từ Liên hiệp quốc đến các tổ chức tài chánh như IMF, WB, ADB, đến các tổ chức phi-chính phủ như Asia Foundation, Ford Foundation, Carnegy Endowment for International Peace, như là một điều kiện cần thiết cho các nước đang phát triển và đi theo kinh tế thị trường. Việt Nam đến năm 2001 cũng bắt đầu xây dựng nhà nước “pháp quyền.”[1] Tuy nhiên, pháp trị và biến thể của nó–pháp quyền, không chỉ thuần tuý là một khái niệm hay lý thuyết trừu tượng của các nhà luật học hay các nhà lý luận chính trị, mà còn là cách sống và nếp suy nghĩ của công dân các nước Tây phương trong gần 2000 năm qua.[2] Do đó, Học Viện Công Dântuyển dịch các tài liệu, tiểu luận liên quan đến pháp trị nhằm tạo cơ hội cho độc giả Việt Nam tiếp cận các tư tưởng về pháp trị của Tây phương, đồng thời cũng góp phần xây dựng cơ sở tài liệu cho lý luận và thực hành pháp trị trong tương lai tại Việt Nam.Một số các nhà lý luận Trung Hoa và Việt Nam quan niệm một cách đơn giản rằng chỉ cần xây dựng một hệ thống luật lệ cho chặt chẽ và thi hành luật một cách nghiêm túc là đạt được pháp trị. Hàn Phi Tử thường được viện dẫn để minh họa cho quan niệm này: “Pháp luật không hùa theo người sang. Sợi dây dọi không uốn mình theo cây gỗ cong. Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu. Cho nên điều sửa chữa được sự sai lầm của người trên, trị được cái gian của kẻ dưới, trừ được loạn, sửa được điều sai, thống nhất đường lối của dân không gì bằng pháp luật.” (Hàn Phi Tử. Thiên Hữu Độ). Tuy nhiên, những nguyên lý do Hàn Phi Tử và phái Pháp gia chủ trương chỉ mới thể hiện được cái mà Tây phương gọi là “Rule by Law” (dụng pháp trị hay pháp quyền), khi chính quyền, mà đại biểu tối cao là nhà vua, biết dùng luật pháp công bằng và rõ ràng để trị dân, chứ Hàn Phi Tử và Pháp gia không giải quyết được vấn nạn trầm trọng của “dụng pháp trị” khi nhà vua phạm pháp hoặc khi nhà vua là một hôn quân. [4] Chưa hết, sau Hàn Phi Tử, Nho gia lại trở thành tư tưởng thống trị xã hội phong kiến. Vấn nạn “dụng pháp trị” lại trở nên trầm trọng hơn nữa với nguyên lý “Lễ bất hạ thứ dân. Hình bất thướng đại phu,” tức là lễ không xuống đến hạng thứ dân, và hình phạt không lên đến đại phu (Lễ Ký). Giai cấp thống trị được mặc nhiên đứng […]

Read more

ILIAD

LỜI GIỚI THIỆU Theo sử gia Tây Âu, cách đây khoảng bốn ngàn năm khi châu Âu chưa thành hình, quốc gia, dân tộc trên lục địa chưa xác định rõ rệt như ngày nay, có bộ lạc cao lớn, tóc vàng, sử gia không rõ thế nào, rời rừng núi mạn bắc kéo xuống bờ biển, đồng bằng mạn nam, băng qua thung lũng Vardar  tiến về phía đông, vượt eo biển Hellespont vào Tiểu Á. Cùng thời gian, một phần bộ lạc rẽ sang phía tây lấn chiếm Nam Âu, định cư trên phần đất sau này gọi là Hellas, bên ngoài gọi là Hy-lạp. Bộ lạc đó có lẽ không đông đảo, và có vẻ không do duy nhất một người chỉ huy. Tới nơi gặp thổ dân họ gọi là Pelasgian, tên gọi tùy tiện không đặt vấn đề nguồn gốc hay chủng tộc, ngày nay gọi là Helladic, người thuộc văn hóa thời kỳ đồ đồng. Họ không gọi họ là người Hy-lạp mà gọi họ là người Achaian, người Argive hoặc người Danaan, nghĩa là thần dân quân vương huyền thoại Danaus sinh nhiều công chúa. Họ là chủng tộc gan dạ, kiên cường, song bán khai. Trái lại, dân tộc họ chinh phục đã hấp thụ văn minh mấy thế kỷ và đã trở thành bộ phận của văn minh Minoan phong phú kết tụ trên đảo Krete cực nam quần đảo. Kết quả là văn hóa mới ra đời, văn hóa Mycenaean, bao gồm nhân tố mạn bắc và nhân tố mạn nam do pha trộn chủng tộc, song thủ lĩnh chỉ huy là người xâm lược. Tiếng nói là (hoặc ít nhất trở thành) tiếng nói của người mạn bắc, tuy thế vài vùng vẫn giữ tiếng nói Helladic hoặc Pelasgian. Liều lĩnh, buông tuồng, ra đi là để cướp phá, chiếm địa điểm chủ chốt của người vùng biển Aegean, họ dần dần tiêm nhiễm lối sống cùng nhiều mặt nghệ thuật, song vẫn bảo tồn tư tưởng, nếp sống tinh thần của mình khiến văn hóa của họ ở nhiều điểm khác văn hóa của người trước họ. Mất nhiều năm họ mới hoàn thành cuộc chinh phục. Dẫu thế sau đó khá lâu họ vẫn là chủng tộc hiếu chiến, sống trên đầu trên cổ thổ dân lao động hàng ngày trên dải đất cằn cỗi. Nghỉ ngơi quá lâu, hòa bình kéo dài, cuộc sống trở nên nhàm chán, họ quay ra gây chiến lẫn nhau hoặc dong buồm xuôi ngược cướp phá vùng biển lân cận. Lúc nhàn rỗi, để giải trí tìm vui, họ quây quần bên nhau ngồi nghe kể chuyện – thành tích anh hùng Achaian, chiến công trên mặt biển, trên đất liền hay chuyện nam thần, nữ thần, do yêu thương hay giận dữ, tham gia kỳ lạ vào sinh hoạt trần thế. Vì không định cư cùng nơi trên đất liền cũng như dọc bờ biển Tiểu Á đầy dẫy chướng ngại tự nhiên, họ chia thành nhiều nhóm sống rải rác trên lục địa và hải đảo.[1]  Vì thiếu […]

Read more

Bình Đẳng và Dân Chủ

Lý Ba (J.D., Harvard Law School; Ph.D., Stanford University) Tạp chí Perspectives, Cuốn 1, Tập 4 Theo giáo sư Robert Dahl, nguồn thứ tư, và cũng là nguồn cuối và nguồn quan trọng, ảnh hưởng đến sự phát triển của dân chủ là lập luận về bình đẳng chính trị. Trong tiểu luận này chúng ta sẽ tìm hiểu tương quan giữa bình đẳng và dân chủ, đặc biệt là bình đẳng về chính trị. Hầu hết các nhà tư tưởng phe tả cũng như phe hữu nhấn mạnh tầm quan trọng của tự do và bình đẳng (ngoại trừ Aristotle và Nietzsche là những người không tin tưởng vào bình đẳng). Tuy nhiên, tự do và bình đẳng có những ý nghĩa khác nhau đối với các nhà tư tưởng khác nhau. Thí dụ phe tự do cổ điển thì cho rằng bình đẳng tức là bình đẳng về mặt tinh thần, đó là bình đẳng tối thiểu đối với phần lớn các nhà tư tưởng. Phần lớn các lý thuyết gia về dân chủ đòi có thêm những sự bình đẳng khác hơn là chỉ có bình đẳng tối thiểu về mặt tinh thần theo [quan niệm của] phe tự do cổ điển. Nói chung, các nhà tư tưởng phe tả nhấn mạnh bình đẳng, trong khi đó các nhà tư tưởng khuynh hữu lại nghiêng về phía tự do. [Thí dụ như] Nietzsche, một triết gia khuynh hữu cực đoan và là một nhà tư tưởng ủng hộ chế độ chính trị do thành phần ưu tú cai trị, không coi trọng sự bình đằng, là. Thực vậy, Nietzsche nghĩ rằng bình đẳng dân chủ là một sự cản trở sự phát triển tối hảo của con người, vì nó tạo cho người ta có tinh thần hành động theo tập thể “bầy đàn”, nó dìm người ta xuống và những điều hứa hẹn do sự bình đẳng dân chủ mang lại thì lại ít hơn những gì người ta xứng đáng được hưởng. Theo Nietzsche, để cho cái tốt đẹp nhất của con người có thể phát triển một cách tự do thì không thể dùng bình đẳng để gò bó con người lại được. Một tâm hồn cao quý không thể nào xếp cùng một hạng với một kẻ thấp hèn, con người ta cần phải được cho tự do cạnh tranh để giành lấy quyền lực và lẽ dĩ nhiên, những con người có tâm hồn cao quý sẽ thắng trong cuộc cạnh tranh đó và trở thành những người cai trị trong xã hội. Ngược lại, các nhà tư tưởng khuynh tả, trong đó có Rousseau và Marx, thì lại rất có ác cảm với sự bất bình đẳng Các nhà tư tưởng khuynh tả thường định nghĩa tự do là một điều gì tích cực và có tính cách khẳng định. Đối với họ, tự do nghĩa là khả năng có thể thực hiện được những điều tốt lành hơn (như được tham gia tự do và bình đẳng trong các hoạt động chính trị, được tự do không bị phân cách, hay […]

Read more

Dân Chủ Là Một Phương Tiện, Không Phải Là Cứu Cánh

Michael Munger “Các nước dân chủ có những quyền tự do cá nhân, quyền tư hữu và tinh thần thượng tôn luật pháp, nhưng đó không phải là nhờ dân chủ. Thật ra các quốc gia đó đã cócác ưu điểm đó ở trong tất cả những cái mà người ta gọi là truyền thống chínhquyền tốt của Tây phương.” Ai cũng thích dân chủ. Nếu hỏi một người Mỹ là có hình thức cai trị nào tốt hơn thì người đó sẽ cảm thấy như bị xúc phạm. Quý vị cũng tin vào dân chủ phải không? Nhưng mà như vậy quý vị tin vào cái gì? Khi nghĩ về dân chủ người ta cho đó là tổng hợp mơ hồ gồm các yếu tố như một chính quyền tốt, bảo vệ quyền cá nhân, sự tham gia chính trị rất là rộng rãi, một xã hội trong đó mọi giới đều được hưởng chung sự phồn vinh kinh tế. Nhưng] ta cũng có thể cộng vào danh sách này những khái niệm như chỉ số lý tưởng về trọng lượng của con người và công thức nấu bánh kẹp. Thêm những điều này vào thì cũng tốt thôi, nhưng chẳng có ý nghĩa gì cả, và rất ít người chịu suy nghĩ xem thực sự dân chủ có ý nghĩa như thế nào. Ca ngợi các thành quả đã đạt được trong thể chế dân chủ là một điều tốt. Nhưng ca ngợi như vậy là lẫn lộn giữa nguyên nhân và hậu quả. Cái lý do mà những nước dân chủ có quyền tự do cá nhân, quyền tư hữu, và [nguyên tắc] pháp trị, không phải là vì đó là những nước dân chủ, mà phải nói cho đúng là những nước nào có được những quyền và nguyên tắc đó là những nước được thừa hưởng toàn bộ và trọn góitruyền thống “chính quyền tốt” của Tây phương. Cái truyền thống này đòi hỏi mọi hành vi của chính quyền phải được đặt trên sự đồng ý của người dân, và chính là mối dây ràng buộc tất cả những điều này thành một gói, chứ không phải là chính cái gói đó. Fareed Zakaria đã xác định cái vấn nạn “trọn gói” này một cách hoàn hảo như sau: Đối với người Tây phương dân chủ có nghĩa là dân chủ tự do, tức là một hệ thống chính trị có những đặc điểm không những là bầu cử tự do và công bằng, mà còn có sự cai trị theo luật pháp, sự phân quyền và sự bảo vệ các quyền tự do căn bản về ngôn luận, hội họp, tôn giáo và sở hữu tài sản. Tuy nhiên, cái tập hợp các quyền tự do đó – chúng  ta có thể gọi là quyền tự do theo hiến pháp – tự nó không có liên hệ gì tới dân chủ.  Thực ra các quyền tự do đó không phải lúc nào cũng đi đôi với dân chủ, ngay cả trong các nước Tây phương.Chính Adolf Hitler đã trở thành quốc trưởng Liên […]

Read more

Dân chủ như một Giá trị Toàn cầu

Amartya Sen Amartya Sen, đoạt giải Nobel Kinh tế năm 1998, là giáo sư Kinh tế học tại đại học Trinity, Cambridge, và đại học Harvard. Bài tham luận dưới đây là diễn văn chính trong buổi hội thảo tại New Delhi về “Xây dựng Phong trào Dân chủ Toàn Thế giới” do Quỹ Yểm trợ Dân chủ Quốc gia, Liên minh Kỹ nghệ Ấn độ, và Trung tâm Nghiên cứu Chính sách (New Delhi) đồng tổ chức. Tham luận này dựa trên cuốn sách của tác già mang tựa đề “Phát triển chính là Tự do,” do nhà Alfred Knopf ấn hành. Vào mùa hè năm 1997, một nhà báo hàng đầu của Nhật Bản có hỏi ý kiến của tôi xem điều gì đáng được coi là quan trọng bậc nhất đã xảy ra trong thế kỷ 20. Tôi cảm thấy đây quả là một câu hỏi bất thường khiến cho ta phải suy nghĩ, vì trong thế kỷ qua có biết bao điều trọng đại đã xảy ra. Các đế quốc ở Âu châu, nhất là đế quốc Anh và Pháp từng một thời thống trị thế kỷ mười chín, nay đã chấm dứt. Chúng ta cũng đã chứng kiến hai cuộc đại chiến. Ta đã chứng kiến sự nổi dậy và suy tàn của chủ nghĩa Phát-xít và Quốc xã. Thế kỷ này cũng chứng kiến sự nổi dậy của chủ nghĩa Cộng sản và sự suy tàn của nó (như ở tại khối Xô-viết) hay sự biến chất từ căn bản của chủ nghĩa này (như ở Trung Hoa). Ta cũng thấy một sự thay đổi cán cân kinh tế với một đầu nặng ở Tây phương sang một sự cân bằng kinh tế với sức nặng tương đương ở Nhật Bản và các nước thuộc Đông Á và Đông Nam Á. Mặc dù vùng này cũng đang trải qua những vấn nạn kinh tế và tài chính, nhưng những vấn nạn này cũng không làm mất được thế cân bằng kinh tế thế giới đã xảy ra trong nhiều thập niên vừa qua (trong trường hợp Nhật Bản, hầu như gần một thế kỷ). Một trăm năm qua, quả thật, không thiếu gì những biến cố quan trọng. Tuy nhiên, trong số những sự phát triển lớn lao và khác nhau xảy ra trong thế kỷ 20, sau rốt, tôi chẳng thấy khó khăn gì khi chọn một sự phát triển ưu việt nhất trong thời đại này: đó là sự phát triển của chế độ dân chủ. Nói thế không có nghĩa là các sự kiện khác trong cùng thời không phải là không quan trọng, nhưng tôi sẽ lập luận rằng trong một tương lai không xa, khi người ta nhìn lại những gì đã xảy ra trong thế kỷ này, họ sẽ phải nhìn nhận sự phát triển của chế độ dân chủ-một chế độ chính trị được công nhận là ưu việt-xứng đáng được xem là quan trọng nhất. Ý tưởng về dân chủ phát xuất, dĩ nhiên, từ cổ Hy lạp, hơn hai ngàn năm trước. Những nỗ lực rời […]

Read more

Tính chất Phi-tự do của Xã hội Dân chủ Cổ Hy-lạp

Bo LI Perspectives, Vol. 1, No. 1 Theo Giáo Sư Robert Dahl, một trong những nhà lý luận về dân chủ nổi bật nhất của thời nay, xã hội dân chủ hiện đại khởi đầu từ bốn nguồn gốc: xã hội dân chủ trực tiếp thời Cổ Hy Lạp, chủ nghĩa cộng hòa giữa các thành quốc La Mã thời Trung Cổ và Phục Hưng, lý thuyết và sự áp dụng thực tiễn của chính quyền đại nghị, và khái niệm bình đẳng chính trị. Tiểu luận này xin giới thiệu đến độc giả vài khái niệm căn bản và các thể chế của xã hội dân chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đó là xã hội dân chủ thời Cổ Hy Lạp. Qua bài viết, tôi cũng mong đưa ra nhận xét phê bình mô hình xã hội dân chủ cổ điển. Trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, sự hình thành của chế độ dân chủ thật là hiếm hoi, và các nhà bình luận trước đây thảy đều chỉ trích lý thuyết và sự thực thi của xã hội dân chủ. Thật vậy, mãi đến nửa thế kỷ hai mươi mới có sự nhất trí đồng lòng về sức thu hút của quan niệm và thể chế xã hội dân chủ. Nền dân chủ Cổ Hy Lạp là trường hợp ngoại lệ của sự khan hiếm xã hội dân chủ trong lịch sử nhân loại. Vào thế kỷ thứ năm trước công nguyên, biến đổi chính trị vĩ đại xảy ra tại các thành quốc Hy Lạp. Sự thay đổi ấy là một biến đổi dựa trên dân chủ, và Giáo Sư Dahl ví tầm quan trọng của sự kiện này với “sự phát minh ra vòng bánh xe hoặc cuộc khám phá ra Tân Thế Giới.” Thời ấy Hy Lạp không chỉ là một nước, mà là kết hợp giữa một số thành quốc độc lập (tiếng Hy Lạp gọi là “polis”). Athens được mô tả là thành quốc với xã hội dân chủ sáng tạo và tinh vi nhất. Lý tưởng và mục tiêu chính trị của nền dân chủ Athen cổ điển là gì? Trong cuốn sách “Chính Trị Luận” nổi tiếng của ông (sáng tác vào khoảng 335 và 323 trước công nguyên), Aristotle phân tích rằng nguyên tắc cơ bản của một xã hội dân chủ cổ điển là quyền tự do. Theo Aristote, quyền tự do bao gồm hai thứ: (1) “cai trị và phục tùng” và (2) “sống theo mình chọn lựa.” Theo như thế, quyền tự do và sự bình đẳng kết nối chặt chẽ. Trên thực tế, yếu tố thứ nhất của quyền tự do, “cai trị và phục tùng,” dựa trên khái niệm căn bản về sự bình đẳng, cái Aristotle gọi là “bình đẳng theo  con số” (đối lại với “bình đẳng theo giá trị”). “Bình đẳng theo con số” có nghĩa là quyền cai trị được phân chia đồng đều giữa tất cả mọi người, bất kể khả năng, giá trị hay sự giàu có của mỗi cá nhân. “Hiểu theo […]

Read more

Nhân Quyền và Các Giá Trị Á Đông

Amartya Sen Lời Giới Thiệu: Trong tiểu luận này Amartya Sen, nhà kinh tế học người Ấn độ, người đoạt giải Nobel về Kinh Tế, phản bác những lý luận của các nhà độc tài tại Á châu cho rằng Nhân Quyền và Tự Do không phải là các giá trị Á Đông nên không thích hợp với văn hóa Á Đông. Trong tiểu luận này Sen cũng phản bác thái độ cao ngạo của những kẻ tự phụ Tây phương là đem ánh sáng văn minh, trong đó có nhân quyền và tự do, đến cho các dân tộc Á Đông. Tất cả những lập luận của Sen được đặt trên những khảo cứu khoa học về các nền văn hóa Đông, Tây và kết luận một cách khẳng định là nhân quyền và tự do là những giá trị của con người nói chung, vượt qua biên giới của lãnh thổ và thời gian. Năm 1776 khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập vừa được công bố ở Hoa Kỳ thì, trong tiểu luận Common Sense, Thomas Paine[1] đã than rằng Á châu “từ lâu đã tống xuất” tự do ra khỏi lục địa này. Trong lời than này Paine thấy rằng Á châu cũng đồng hội đồng thuyền với nhiều nước khác trên thế giới (ông mong rằng Hoa Kỳ sẽ khác họ): “Tự Do bị người ta săn lùng ở khắp nơi trên hoàn cầu. Á châu và Phi Châu đã tống xuất tự do ra ngoài từ lâu. Âu Châu xem tự do như một kẻ xa lạ và Anh Quốc đã cảnh cáo là tự do phải rời khỏi xứ họ.” Đối với Paine, tự do chính trị và dân chủ ở bất kỳ nơi nào cũng là điều vô cùng quý báu, nhưng lại bị vi phạm ở hầu như tất cả mọi nơi. Hiện nay trong nhiều vùng khác nhau trên thế giới, quyền tự do và dân chủ vẫn tiếp tục bị vi phạm, tuy không toàn diện như dưới thời của Paine. Nhưng vẫn có sự khác biệt. Một kiểu lý luận mới đã được dùng để phủ nhận tính quan trọng toàn cầu của những quyền tự do này. Lập luận đáng chú ý nhất được dùng trong các cuộc tranh luận này là trong hệ thống giá trị của Á Đông tự do không được coi trọng như ở Tây Phương. Vì sự khác biệt về hệ thống giá trị, lập luận này dẫn đến một kết luận là Á Đông phải trung thành với hệ thống triết lý và các ưu tiên chính trị của mình. Trong Hội Nghị Thế Giới về Nhân Quyền tại thành phố Vienna năm 1997, phái đoàn của các chính phủ đã nhấn mạnh những khác biệt về văn hóa và giá trị giữa Á Đông và Tây Phương. Bộ trưởng Ngoại giao của Singapore đã lên tiếng cảnh cáo là “sự thừa nhận toàn cầu về lý tưởng nhân quyền có thể gây nên tai hại, nếu thuyết phổ biến toàn cầu này được dùng để chối bỏ hoặc che đậy cho […]

Read more