fbpx

Search Results for: luận cương 9

Hệ thống Ngân hàng Việt Nam: Bình mới, Rượu cũ

Chu Văn Nguyên Theo những báo cáo rộng rãi của các phương tiện truyền thông quốc tế, các thời báo chính sách, và các tổ chức Bretton Woods, như Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và Ngân Hàng Thế Giới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được sự tiến bộ vượt bậc kể từ cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 với tầm ảnh hướng quốc tế. Điều kiện kinh tế chung đã được cải thiện và phân khu tài chính đã được chuyên sâu và đa dạng hóa trong giai đoạn này. Một dấu hiệu của sự cải thiện trong thị trường tài chính là lĩnh vực ngân hàng đã được chuyển đổi từ chế độ ngân hàng chiếm vị thế độc tôn, thiếu tính cạnh tranh và thiếu hiệu quả sang cơ cấu thị trường cạnh tranh hơn. Tổng sản lượng quốc nội lơ lửng ở mức của các quốc gia có mức thu nhập trung bình là bằng chứng của sự cải thiện trong điều kiện kinh tế rộng lớn. Vì vậy, mối quan tâm đặc biệt bây giờ là đánh giá hành vi thiết lập lãi suất của các ngân hàng thương mại Việt Nam, bắt đầu từ sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, và so sánh nó với hành vi của ngân hàng thương mại trong các nền kinh tế tiên tiến và mới nổi, bởi vì yếu tố này ảnh hưởng đến mức độ tiết kiệm, đầu tư, phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội của một quốc gia và phúc lợi công cộng. Trong thuật ngữ của ngành ngân hàng, khoảng cách (hoặc mức chênh lệch) giữa lãi suất các ngân hàng phải trả cho người gửi tiền và lãi suất mà các ngân hàng thu phí khi cho khách hàng vay được gọi là “phí trung gian” hay “phí môi giới.”  Một ngân hàng có thể cung cấp cho các người gửi tiền lãi suất 2 phần trăm trên số tiền của họ ký thác, nhưng những người vay phải trả ngân hàng 5 phần trăm, tạo ra phí trung gian cho ngân hàng đó là 3 phần trăm. Phí trung gian này không chỉ cung cấp thu nhập về lãi suất cho ngân hàng mà nó còn ảnh hưởng đến các mức độ tiết kiệm, đầu tư, phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của quốc gia. Phí môi giới này cũng biểu hiện cách mà các ngân hàng thương mại phản ứng lại những nỗ lực của chính phủ qua chính sách tiền tệ để điều tiết những thăng trầm của chu kỳ kinh tế – gọi là chính sách tiền tệ phản chu kỳ hay chính sách tiền tệ ngược chu kỳ; và, do đó, cho thấy hiệu quả của các chính sách của ngân hàng trung ương. Kết quả là việc phân tích mức chênh lệch này làm sáng tỏ và cung cấp cái nhìn sâu sắc vào các hoạt động ngân hàng. Dựa theo thuyết trên, những dòng sau đây sẽ nhằm thảo luận về cách hoạt động của các […]

Read more

Chủ nghĩa cá nhân và tự do

Chức năng của Nhà nước không gì hơn là bảo vệ người dân EDWARD YOUNKINS 01/01/1998 Edward Younkins là một giáo sư về kế toán và quản trị kinh doanh tại Đại học Dòng Tên Wheeling, Wheeling, West Virginia. Chủ nghĩa cá nhân là quan điểm cho rằng mỗi người đều có ý nghĩa đạo đức và một số quyền nhất định [mà các quyền đó] hoặc có nguồn gốc thiêng liêng hoặc vốn có trong bản chất con người. Mỗi cá nhân tồn tại, nhận thức, trải nghiệm, suy nghĩ, và hành động qua cơ thể và đầu óc của mình và do đó [những hành vi này phát xuất] từ những điểm đơn nhất trong thời gian và không gian. Cá nhân có khả năng lý luận độc đáo và sáng tạo. Các cá nhân có thể có quan hệ với nhau nhưng sự suy nghĩ đòi hỏi người suy nghĩ độc nhất và đặc thù. Người theo chủ nghĩa cá nhân nhận trách nhiệm suy nghĩ cho bản thân, cho hành động dựa trên suy nghĩ của mình, và để đạt được hạnh phúc của riêng mình. Tự do là điều kiện tự nhiên của cá nhân. Từ khi sinh ra, mỗi người đều có tiềm năng để suy nghĩ những suy nghĩ của riêng mình và kiểm soát năng lượng của riêng mình trong nỗ lực hành động theo những suy nghĩ đó. Mọi người có thể bắt đầu thực hiện hành động có chủ đích khi họ được tự do không bị những hạn chế nhân tạo – khi không có sự cưỡng ép bởi các cá nhân khác, các nhóm người, hoặc chính quyền. Tự do không phải là khả năng đạt được những gì chúng ta mong muốn. Những trở ngại phi nhân tạo như sự thiếu khả năng, trí thông minh, hoặc các nguồn lực có thể dẫn đến kết quả là không đạt được các mong muốn. Tự do có nghĩa là sự vắng bóng của các ràng buộc cưỡng chế; tuy nhiên, nó không có nghĩa là sự vắng bóng của tất cả các ràng buộc. Theo đó, tự do là điều kiện cần nhưng không phải là điều kiện đủ, để được hạnh phúc. Hạnh phúc cá nhân có thể được định nghĩa là những trải nghiệm cảm xúc có ý thức tích cực đi kèm hay xuất phát từ việc sử dụng tiềm năng của con người, bao gồm cả tài năng, khả năng và đức tính của cá nhân. Ý thức rằng mình là thành viên của cộng đồng do mình tự do lựa chọn là một thành tố quan trọng của hạnh phúc. Chủ nghĩa cá nhân không cho rằng một cộng đồng hay một xã hội có sự tồn tại ngoài các cá nhân tạo nên nó. Một cộng đồng hay xã hội là một tập hợp các cá nhân, đó không phải là một vật thể cụ thể hoặc một sinh vật sống khác biệt với các thành viên của nó. Sử dụng thuật ngữ trừu tượng như “cộng đồng” hay “xã hội” là […]

Read more

Các Lý tưởng của Chính thể Chuyên chế

James Peron  Thành tựu về Bình đẳng Đòi hỏi Xóa bỏ Tự do Chủ nghĩa xã hội, cùng với các phong trào khác dựa trên chủ nghĩa bình đẳng, thường được nâng lên như một lý tưởng đạo đức. Nhiều người cho rằng xu hướng tiến đến “sự bình đẳng” là điều rất đáng ca ngợi. Tuy nhiên, người ta thường thừa nhận rằng chủ nghĩa xã hội, mặc dù dựa trên một nguyên tắc đạo đức, đã thất bại vì nó đã sử dụng phương tiện phi đạo đức để đạt được cứu cánh. Nhưng vấn đề là các phương pháp thực hiện những lý tưởng xã hội chủ nghĩa vốn có trong những lý tưởng đó. Bình đẳng, chính cái nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội mà rất nhiều người đưa ra như là đức hạnh cao nhất của nó, chắc chắn sẽ dẫn đến chế độ độc tài. Cựu lí luận gia Marxist David Horowitz nói rằng “các quyền vẫn thường được tuyên bố trước đây trong các luận thuyết của cánh Tả là [những điều] tự mâu thuẫn và tự chuốc lấy thất bại.” Các thành tựu của sự bình đẳng đòi hỏi phải xóa bỏ tự do. Horowitz viết: “Chế độ công bằng xã hội mà cánh Tả mơ ước là một chế độ, do chính bản chất của nó, phải bóp nát tự do cá nhân. Nó không phải là vấn đề về sự lựa chọn phương tiện chính trị đúng (mà vẫn tránh phương tiện chính trị sai) để đạt được cứu cánh mong muốn. [Bởi vì] các phương tiện được bao hàm trong cứu cánh. [Hay trong cứu cánh vốn có các phương tiện rồi.] Các cuộc cách mạng của cánh tả phải bóp nát tự do để đạt được “công bằng xã hội” mà nó mưu cầu. Do đó, đạt được ngay cả cứu cánh ấy là điều bất khả thi. Đây là vòng tròn độc tài toàn trị mà chẳng thể điều chỉnh thành hình vuông được. Chủ nghĩa xã hội không phải là bánh mì mà không có tự do; nó chẳng phải tự do cũng chẳng phải bánh mì.” Các tính chất hủy diệt của chủ nghĩa xã hội là kết quả của sự mong muốn của nó về sự bình đẳng. Không khó để hiểu được những lý do của điều đó. Trong ‘Hiến pháp về Tự do’, F. A. Hayek[1] đã viết, “Có một điều không đúng sự thật rằng con người được sinh ra bình đẳng; . . . nếu chúng ta đối xử với họ như nhau, kết quả phải là bất bình đẳng ở các địa vị thực tế của họ; . . . [do đó] cách duy nhất để đặt họ ở địa vị bình đẳng sẽ là đối xử với họ một cách khác nhau. Bình đẳng trước pháp luật và bình đẳng về vật chất, do đó, không chỉ khác nhau, mà còn mâu thuẫn với nhau nữa.” Trong thiên hạ có những người với những mức độ thông minh khác nhau, bên cạnh những mức độ khác nhau […]

Read more

Chủ nghĩa Trọng Thương vẫn còn sống

Charles L. Hooper LGT. Khi nền kinh tế đang gặp khó khăn, những chính trị gia đều tranh luận về những biện pháp nhằm hồi phục kinh tế, dù đó là tại nước Mỹ hay nước Tàu. Một trong những biện pháp được đề cập nhiều nhất là bảo hộ hàng hóa nội địa để tránh thâm hụt mậu dịch. Đây chính là tư tưởng cốt lõi của Chủ nghĩa Trọng thương, một học phái kinh tế thời Trung cổ đã bị đào thải vì lỗi thời. Nhưng ngày nay lại được đưa ra như một biện pháp mà cả nước Mỹ lẫn Trung Hoa đang dùng để biện minh cho chính sách kinh tế của mình. Charles Hooper, một chuyên gia kinh tế, nhận định và phê phán Chủ nghĩa Trọng thương trong bài viết dưới đây. *** Nhiều người ngày nay không để ý rằng một số  nhà lãnh đạo chính trị và giới truyền thông dòng chính đang tán tụng những ý tưởng đã bị phủ nhận và đã bị để cho chết hơn hai trăm năm trước. Cũng giống như trong những phim kinh dị, có những kẻ tuy đã chết chôn xuống đất rồi mà không chịu nằm yên. Khi còn đi học môn kinh tế, tôi học được rằng chủ nghĩa trọng thương đã dành chỗ và thay thế chế độ phong kiến để trở thành một học thuyết kinh tế thống trị tư tưởng trong thời Trung Cổ. Chủ nghĩa Trọng thương được định nghĩa như sau: “chủ nghĩa kinh tế quốc gia nhằm xây dựng một nhà nước giàu mạnh và có quyền lực.”[1]Định nghĩa này được đặt căn bản trên lập luận như thế này: “Một nước càng giàu, thì nước đó càng mạnh; một nước càng mạnh, thì đời sống của mọi người trong nước đó đều khá hơn.”[2] Mãi cho đến thế kỷ 17, thì giá trị của chủ nghĩa trọng thương mới bị xét lại một cách nghiêm túc, và Adam Smith là người đã đóng cọc nhọn vào trái tim của chủ nghĩa trọng thương, để cho nó chết luôn, bằng tác phẩm Tài sản của Quốc gia (The Wealth of Nations), được ấn hành 235 năm trước đây. Có lẽ đa số những nhà kinh tế đều nắm được quan điểm lịch sử này, nhưng dường như phần còn lại của thế giới chưa bao giờ nhận được tờ cáo phó của chủ nghĩa trọng thương. Rủi thay, những ý tưởng cổ lỗ và phản tác dụng của chủ nghĩa trọng thương vẫn còn đang sống và hoạt động tại nước Mỹ vào thế kỷ 21. Chủ nghĩa trọng thương gồm một số những ý tưởng rời rạc, không có hình thái nhất định, nhưng lại quy định những thành tố của xã hội nên được tổ chức theo cơ cấu nào. Những nhà tư tưởng trọng thương không phải lúc nào cũng đồng ý với nhau, và khôi hài thay, có nhiều khi lại phê phán chính cái hệ thống của chủ nghĩa này. Tuy vậy, ta có thể ghi nhận một vài điểm trọng tâm […]

Read more

Tận hưởng Cuộc đời: Khái niệm về Phí tổn Cơ hội

Rusell Roberts  Một trong những khó khăn của một nhà kinh tế học là giải thích cho người khác hiểu mình làm cái gì để sinh sống. Người ta hiểu rằng một trong những điều một giáo sư kinh tế học làm là dạy kinh tế học. Nhưng dạy kinh tế học thực sự là dạy cái gì? Phần lớn người ta cho rằng môn kinh tế học có liên quan đến đầu tư và quản trị tài chánh. Có một lần tôi nói với người khách cùng đi trên máy bay là tôi là nhà kinh tế học, bà ta nói, “vậy hả,” chồng của bả cũng mê thị trường chứng khoán. Hmm. Tôi không nói cho bả biết là ngoài sự hiểu biết về những lợi điểm của việc đầu tư vào những quỹ đầu tư hỗ tương đã được liệt kê theo chỉ số, tôi chẳng biết tí gì về thị trường chứng khoán cả. Bà khách ngồi kế bên tôi, nếu đã đọc Alfred Marshall, thì kiến thức về kinh tế của bả có lẽ sẽ dồi dào hơn. Marshall cho rằng kinh tế học là “môn học về loài người trong những hoạt động bình thường của đời sống.” Môn học này chính là công việc của Marshall, Adam Smith, Friedrich Hayek, và Milton Friedman: Họ tìm hiểu xem con người làm những cái gì và ảnh hưởng của những hành vi này đối với xã hội loài người ra sao.[1] Nhưng cái định nghĩa về kinh tế mà tôi khoái nhất là một biến thể của định nghĩa của Marshall. Định nghĩa này do một sinh viên của tôi nói lại khi nghe một giáo sư của em giảng: kinh tế học là môn học để làm sao lấy/thu được nhiều nhất từ cuộc đời. Tôi khoái định nghĩa này vì nó đánh trúng ngay tâm điểm của kinh tế học–những lựa chọn mà ta phải quyết định, bởi vì ta không thể có hết những điều ta muốn. Kinh tế học là môn học về những nhu cầu vô hạn và những phương tiện hữu hạn, là môn học về những chọn lựa bị giới hạn. Điều này đúng cho cá nhân và chính quyền, gia đình và quốc gia nữa. Thomas Sowell nói rõ ràng nhất: Không có giải pháp, chỉ có những sự trao đổi. Để có thể thu được nhiều nhất từ cuộc đời, để suy nghĩ như một nhà kinh tế học, bạn phải biết lựa chọn, bỏ vật này để lấy vật khác. Và đó chính là toàn bộ khái niệm về phí tổn của cơ hội. Chẳng thể nào có một định nghĩa đơn giản hơn. Nếu bạn muốn có một điều gì đó, thì bạn phải từ bỏ một điều khác. Thực ra ý tưởng này tinh tế hơn mới thoạt nhìn. Hãy tìm hiểu thêm chút nữa. Milton Friedman vẫn thường nói kinh tế học rất đơn giản. Ta chỉ cần nhớ có hai điều rằng nhu cầu có độ dốc đi xuống và không có cái gì là miễn phí cả. Vấn đề khó […]

Read more

Thương Gia – Người Tạo ra Thị trường hay Kẻ Ăn bám Xã hội?

Michael Munger* Người “trung gian” mua rẻ, bán mắc, và trong khoảng thời gian này y chẳng làm gì cả để cải thiện sản phẩm. Những người trung gian ở khắp mọi nơi và có lẽ đã có mặt từ cái thuở đầu tiên con người sơ khai trao đổi hàng hóa với nhau để cải thiện đời sống. Marco Polo[1] và gia đình của ông là những người trung gian. eBay cũng vậy.[2] Kể từ thời của Marco Polo tới eBay là một khoảng thời gian dài đầy dẫy những rắc rối và phức tạp của xã hội, trong khoảng thời gian này đã có hàng triệu triệu những hoạt động kinh tế và giao dịch vừa có tính chuyên môn vừa mang lại lợi nhuận cao độ. Nhưng những người “trung gian” này có giúp ích cho hệ thống thị trường hay không, hay họ chỉ là những kẻ ăn bám xã hội? Tìm ở đâu xa Chẳng cần tìm đâu xa, thương nhân chính là cái họ của tôi. “Munger” xuất phát từ chữ “monger,” có nghĩa là lái buôn, thường ám chỉ những người buôn đồ lậu. Cái tên này có nguồn gốc rất xưa từ mãi thế kỷ thứ 11: trong những văn tự dùng tiếng Saxon,[3] từ ngữ này được viết là “mancgere.” Theo Bộ Từ điển Từ nguyên, danh từ Latinh của từ này là “Mangonis,” có nghĩa là người hành nghề trao đổi hàng hóa hay thương nhân (thường được dùng, buồn thay, trong việc buôn bán nô lệ). Và từ “mangonis,” lại có gốc từ tiếng Hy lạp là “manganon,” nghĩa là bộ máy chiến tranh hay mưu mẹo dùng để lừa kẻ thù. Con ngựa thành Troia là một “manganon.” Với những cái nghĩa có gốc tích như vậy, chẳng trách gì người thương nhân vẫn bị xem là những kẻ lừa đảo, trộm cắp, hay ăn bám xã hội. Thành ra, xét về ngữ nghĩa thì, cái từ thương nhân này chẳng có tí ý nghĩa tích cực nào cả mãi cho đến có lẽ năm 1100 sau Công nguyên. Đến khoảng năm 1100, con sông từ ngữ đã bắt đầu chia nhánh: Đã có những máy móc dùng trong chiến tranh (như máy bắn đá, còn gọi là “mangonel”), và những thương nhân trong thị trường (còn được gọi là “mancgere”). Trong kiệt tác Lịch sử Dân Anglo-Saxons (1836), một bộ sử dày ba cuốn, tác giả Sharon Turner đã trích một chứng cớ có từ thế kỷ 11 như sau: Trong cách nói chuyện của người Saxon, thương nhân được giới thiệu như sau: “Tôi nói rằng tôi là người giúp ích cho nhà vua, nhà quý tộc, và những người giàu có, và cho tất cả mọi người. Tôi chất hàng hóa lên đầy chiếc tàu của tôi, rồi giong buồm đi khắp bốn bể năm châu để bán những sản vật của tôi, rồi mua những thứ quý giá mà ở đây không có, rồi đem chúng về đây vừa trải qua không biết bao nhiêu nguy hiểm trên biển cả, có khi tàu bị […]

Read more

Đảo Châu Báu – Sức Mạnh của Mậu Dịch – Phần II

Phần II. Trao đổi đã biến đổi tiêu chuẩn sống của chúng ta như thế nào? Trao đổi, xem ra có vẻ rất đơn giản. Bạn có một vài thứ tôi muốn và tôi có vài thứ bạn muốn thì chúng ta trao đổi và cả hai chúng ta đều có lợi. Nhưng sức mạnh sâu xa nhất của trao đổi vẫn còn được dấu kín. Sức mạnh mà chúng ta không thấy được của trao đổi là ảnh hưởng của nó trên phương cách ta sử dụng thời giờ và tiền lương mà ta kiếm được. Khả năng để trao đổi với những người khác, hoặc là với láng giềng của ta dù ở bên kia đường hay là với láng giềng ở bên kia biên giới, tạo cho chúng ta cơ hội để nhờ vào những người khác mà hưởng dụng được một số hay hầu hết những đồ vật hàng hóa và dịch vụ. Và sự tùy thuộc vào những người khác, lại cho phép ngay cả những người nghèo khó nhất trong chúng ta có được một tiêu chuẩn sống [cao cấp] mà cách sống theo kiểu tự cung ứng cũng không bao giờ có thể tưởng tượng nổi. Câu hỏi được đặt ra là Trao đổi đã thay đổi tiêu chuẩn sống của chúng ta như thế nào? Để bắt đầu trả lời câu hỏi này trong phần đầu của tiểu luận này, tôi đã kể câu chuyện của hai gia đình mới cưới là Fishers và Palmers, họ bị đắm tầu trên một hòn đảo nhiệt đới, và đang phải vất vả tìm kiếm đồ ăn và nước uống. Gia đình Palmers chỉ có thể thu thập vừa đủ cá và nước ngọt để sống còn. Gia đình Fisher thu thập cả hai thứ khá hơn. Nhưng mặc dù gia đình Palmers yếu kém hơn gia đình Fisher trong cả hai công việc, họ vẫn có một cái gì đó để trao đổi – đó là thì giờ của họ. Bằng cách góp nhặt nước cho gia đình Fishers, gia đình Fishers có thêm thì giờ để bắt cá. Và bằng cách đánh bắt cá cho gia đình Palmers, gia đình Fishers tạo thêm thì giờ cho gia đình Palmers đi lấy nước. Trong thí dụ tôi đã dùng, gia đình Fishers có lợi thế tương đối trong việc đánh bắt cá. Mặc dù họ cũng giỏi lấy nước hơn gia đình Palmers, nhưng đi lấy nước có nghĩa là bỏ qua việc đánh bắt cá. Chính ra đối với gia đình Fishers, lấy nước bằng phương cách gián tiếp – bằng đánh bắt cá và đổi cá lấy nước ngọt là phương pháp tốt hơn. Tương tự như vậy, gia đình Palmers có lợi thế tương đối trong việc lấy nước. Dù họ có thể đánh bắt cá, nhưng đánh bắt cá quá tốn kém – do phải giảm thiểu thì giờ đi lấy nước. Tốt hơn là có được cá bằng cách đi lấy nước để đổi với cá. Kết quả là tiêu chuẩn sống cao hơn cho cả hai gia đình. […]

Read more

Tôi Là Cây Bút Chì

Tôi Là Cây Bút Chì[*] Gia phả của Tôi theo Lời kể của Leonard E. Read Leonard E. Read (1898-1983) thành lập Tổ chức Giáo dục Kinh tế (Foundation for Economic Education-FEE) năm 1946 và làm chủ tịch của tổ chức này cho đến khi qua đời. FEE là một trong những trung tâm nghiên cứu tự do (think tank) đầu tiên của Mỹ. “Tôi, Cây Bút Chì,” tiểu luận nổi tiếng nhất của ông, được ấn hành tháng 12, 1958 trong tạp chí Người Tự Do. Dù có một vài những thay đổi trong cách thức và nơi sản xuất bút chì, những nguyên tắc trong bài này vẫn không đổi. *** Tôi là một cây bút chì–một cây bút chì bằng gỗ, tầm thường và quen thuộc với những em học sinh và người lớn biết đọc và biết viết. Viết vừa là nghề chính vừa là nghề phụ và là thú vui của tôi. Đó là những việc tôi làm. Có thể bạn đang thắc mắc là tại sao tôi lại viết về gia phả của mình. Xem nào, để bắt đầu, phải nói là câu chuyện đời tôi là một chuyện rất thú vị. Và thứ nữa, tôi là một bí ẩn–còn bí ẩn hơn cả một cái cây hay một buổi hoàng hôn, hay ngay cả một tia chớp. Nhưng, buồn thay, những người dùng tới tôi vẫn thản nhiên sử dụng và chẳng buồn tìm hiểu nguồn gốc của tôi như thế nào, cứ như thể sự hiện hữu của tôi chỉ là một tình cờ ngẫu nhiên và chẳng có căn nguyên chi hết. Cái thái độ rẻ rúng ấy đẩy tôi xuống hạng những đồ vật hạng xoàng. [Nhưng] Đó là một loại sai lầm khủng khiếp mà nhân loại không thể tồn tại lâu dài được mà không gặp nguy hiểm. Lý do là vì, như nhà thông thái G. K. Chesterton đã nói: “Chúng ta bị héo tàn đi vì thiếu sự tò mò, chứ không phải vì thiếu những điều kỳ diệu.” Tôi, Cây Bút Chì, dù có bề ngoài đơn giản, đáng để cho các bạn phải kinh ngạc, vâng, đó là điều mà tôi sẽ cố thuyết phục các bạn. Thực ra, nếu bạn có thể hiểu tôi–không, đối với nhiều người, đây quả là một đòi hỏi quá đáng–hay nếu bạn có thể cảm nhận sự huyền diệu được hình tượng hóa qua bản thân tôi, thì bạn có thể giúp cho nhân loại bảo vệ được sự tự do đang bị mất dần đi. [Cuộc đời tôi] là một bài học thâm thúy. Và bản thân tôi có thể dạy bài học này hay hơn một chiếc xe hơi hay một cái máy bay, hay một cái máy rửa chén, bởi vì, thực ra, tôi có một bề ngoài đơn giản. Đơn giản? Đúng thế! Nhưng tôi dám cá là không có một cá nhân nào trên trái đất này biết cách chế tạo ra tôi.  Nói nghe có vẻ lập dị, phải không các bạn? Nhất là khi ta thấy có vào khoảng một […]

Read more

Thực Tế của Thị Trường

Russell Roberts 5 tháng 9, 2005 Bạn đang ngồi trong nhà đọc sách trong một ngày hè, ngoài trời nóng bức, bỗng dưng bạn cảm thấy lạnh. Chiếc máy lạnh trong nhà bạn đang rồ lên chạy ào ào. Bạn đứng dậy và kiểm tra cái điều nhiệt kế, và quả nhiên những điều bạn nghi ngờ đã được kiểm chứng-ai đó trong nhà đã tăng độ lạnh của chiếc máy điều hòa nhiệt độ. Bạn chỉnh lại nhiệt độ trên điều nhiệt kế đúng theo ý bạn và trở lại phòng đọc sách. Hay là giả sử rằng bạn phải đi ra ngoài làm vài công việc lặt vặt nào đó. Khi mở cửa ra đường, bạn thấy trời đang mưa. Chẳng có nút vặn nào để “tắt” mưa cả. Bạn quay vào nhà lấy áo mưa hoặc chiếc dù để che mưa trước khi bước ra ngoài. Ta có thể chia ra một cách dễ dàng những điều ta trải nghiệm trong thế giới này thành hai loại hiện tượng–một loại là những điều như nhiệt độ trong nhà của ta; sự tăng, giảm nhiệt độ là kết quả của hành vi và ý định của con người, và một loại, như là mưa ngoài trời, không phải là hành vi và ý định cuả con người Nhưng cũng còn một loại kinh nghiệm thứ ba nữa–những hiện tượng xảy ra là vì hành vi của con người nhưng lại không phải do ý định của con người. Ngôn ngữ là một thí dụ của hiện tượng này. Chẳng có ai chế tạo hay kiểm soát tiếng Anh cả. Cũng có một số chuyên gia tự cho mình nhiệm vụ kiểm tra và ảnh hưởng đến sự tiến hóa của Anh ngữ, nhưng thực ra cũng chẳng làm được gì nhiều, cũng giống như chính phủ Pháp đã cố bắt dân Pháp đừng dùng từ “le weekend” để chỉ hai ngày nghỉ cuối tuần nữa, mà thay vào đó là cụm từ dược chính quyền phê chuẩn là “fin de semaine” (cuối tuần lễ). Ai chế tạo ra động từ “google,” hay những danh từ như “cyberspace,” hay “blog”? Nhưng quan trọng hơn, ai là người quyết định rằng những từ này có thể được sử dụng trong ngôn ngữ hàng ngày mà không cần phải giải thích? Chẳng có ai cả! Bởi vì chẳng có ai kiểm soát ngôn ngữ, ta có thể nghĩ rằng ngôn ngữ sẽ trở nên lộn xộn và hỗn độn. Thế nhưng từ ngữ đâu có rơi tự nhiên như những hạt mưa. Những từ nào tồn tại và những từ nào bị loại bỏ, những từ nào làm cho tâm trí ta thích thú và những từ nào bị rơi vào quên lãng, không phải là một hiện tượng bất kỳ. Những chọn lựa của con người khiến những từ này (chứ không phải từ khác) trở thành một phần của Anh ngữ, bởi vì những từ ngữ này hữu dụng. Nhưng không có ai là vị quan tòa có quyền quyết định, mà có thể nói rằng, tất cả chúng […]

Read more

Thị Trường Của Tự Do

Thị Trường của Tự Do Amartya Sen Liên Hiệp Quốc đang khởi xướng cuộc vận động để giảm thiểu sự nghèo khó bằng cách chỉnh đốn lại nền kinh tế toàn cầu. Giáo sư Amartya Sen, người đoạt giải Nobel Kinh Tế năm 1998, lập luận rằng điều đó phụ thuộc rất nhiều trên nền tảng dân chủ cũng như trên nền tảng tự do mậu dịch. Trong bài tiểu luận nhan đề Sự Tiến Bộ của Học Vấn viết từ gần 400 năm trước, Francis Bacon đã lập luận rằng “sự biểu lộ và bày tỏ nghi vấn có công dụng song phương.” Ngoài công dụng hiển nhiên là giúp ta tránh được những “sai sót,” công dụng khác là giúp mở rộng tầm khảo sát. Bacon cho rằng, những vấn đề, “lẽ ra đã có thể bị bỏ sót nếu không có những nghi vấn,” đã được “quan sát tận tường cẩn thận,” chính là do những nghi vấn được trình bày ra. Cái công dụng thứ hai đó rất quan trọng khi chúng ta ra công tìm hiểu những quan niệm hay phê bình về toàn cầu hóa đang được phổ biến dưới nhiều hình thức. Tôi thiết nghĩ, sự quan trọng của những điều này không phải nằm trong những “luận đề” được trình bày đơn giản trên những khẩu hiệu hay bích chương mà nằm trong những “chủ đề” được đưa ra một cách mạnh mẽ trong các cuộc tranh cãi toàn cầu. Những cuộc biểu tình không phải chỉ xảy ra ở những diễn đàn tài chánh thương mại quốc tế (như ở Seatle, nơi Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới hội họp) mà còn trong những cuộc chống đối dù thiếu tầm cỡ tổ chức hơn nhưng không kém phần quyết liệt ở nhiều thủ đô quốc gia khác, từ Jakarta, Băng Cốc, đến Abidhjan và Mễ Tây Cơ. Những nghi vấn về mối quan hệ kinh tế toàn cầu tiếp tục được đưa ra từ nhiều ngóc ngách của thế giới đủ để minh chứng là những nghi vấn về toàn cầu hóa cũng chính là một hiện tượng toàn cầu. Sự “nghi vấn toàn cầu” này không phải chỉ là những hiện tượng chống đối phát sinh từ những địa phương đơn lẻ. Tuy nhiên, ý nghĩ của hiện tượng này không phải làm tổn hại khía cạnh kinh tế của nền mậu dịch thế giới hay sự sử dụng rộng rãi của kỹ thuật và khái niệm tài chánh hiện đại. Thật thế, tôi tin chắc chắn là như vậy. Và hơn nữa, những sự tranh luận như thế có thể đóng một vai trò rất hữu ích để mở rộng sự khảo sát của chúng ta về những quan hệ kinh tế và tài chính thế giới và buộc ta phải chú ý đến những vấn đề lẽ ra có thể bị lãng quên. Chúng ta phải phân biệt rõ ràng từng vấn đề. Những người phản đối chính sách toàn cầu hóa có thể xem đây là chuyện điên rồ mới, nhưng thật ra nó không phải mới […]

Read more