Liên bang là một Bảo đảm chống lại Chia rẽ Nội bộ và Nội chiến Alexander Hamilton 21 tháng 11, 1787 Cùng đồng bào Tiểu bang New York, Một liên bang vững bền sẽ ngăn cản những chia rẽ nội bộ và hiểm họa nội chiến, đảm bảo cho nền hòa bình và tự do của các tiểu bang. Đọc lại lịch sử của những nền cộng hòa Hy Lạp và Ý Đại Lợi với những đặc tính hẹp hòi, chúng ta sẽ không khỏi cảm nhận niềm kinh hãi và chán ghét những âm mưu liên tục đã xẩy ra. Những chuỗi nội loạn liên tục đã luôn luôn đặt họ trong tình trạng giằng co giữa những thái cực của độc tài và bạo loạn. Những thời kỳ yên bình hiếm có, thường chỉ là những những điểm tương phản ngắn hạn trước những trận bão tố tiếp theo sau. Chúng ta thường nuối tiếc những khoảng thời gian yên bình ngắn ngủi đó, vì nghĩ rằng những cảnh tượng tốt đẹp trước mắt chúng ta sẽ nhanh chóng bị tràn ngập bởi những trận cuồng phong nội loạn và tranh chấp chính trị tiếp theo. Chúng ta sẽ luyến tiếc những giây phút huy hoàng nổi lên từ những đổ vỡ, mặc dầu những giây phút đó có thể hấp dẫn chúng ta với một hào quang ngắn ngủi và mơ hồ, chúng cũng sẽ tự nhắc nhở những khuyết điểm của chính quyền sẽ làm biến đổi phương hướng và làm lu mờ những khả năng đáng được đề cao đó. Từ những bạo loạn đã phá hủy lịch sử của những nền cộng hòa đó, những người cổ võ cho nền độc tài đã tìm ra những luận cứ, không những để chống lại hình thức tổ chức chính trị cộng hòa, mà còn chống lại chính những nguyên tắc về tự do của con người. Những người này còn than phiền tất cả các thể chế tự do đều đi ngược lại với trật tự xã hội, và họ cũng chống lại những người cổ võ cho những thể chế loại này. Tuy nhiên, rất may cho nhân loại, trong một vài trường hợp huy hoàng, một số những cơ cấu chính quyền được xây dựng trên căn bản các quyền tự do đã đánh đổ luận cứ ngụy biện của những người đó. Và tôi tin tưởng rằng Hoa Kỳ sẽ trở thành một nền móng vững chắc để xây dựng những công trình khác, không kém rực rỡ, để trở thành một thí dụ chứng tỏ sự sai lầm của những người này. Tuy nhiên cũng không thể chối cãi hình ảnh mà những người đó đã dùng để phác họa những nét chính của một nền cộng hòa chỉ là việc sao chép lại những nền cộng hòa Hy Lạp và Ý Đại Lợi. Nếu không tìm được những mẫu tổ chức tốt đẹp hơn cho hình thức chính quyền cộng hòa thì những người yêu chuộng tự do đã loại bỏ hình thức tổ chức chính quyền này vì […]
Giới thiệu Đạo Đức Luận (Nicomachean Ethics)
Đỗ Khánh Hoan Đi vào tác phẩm này, nếu là lần đầu, độc giả sẽ làm quen với nhà tư tưởng phong phú lạ kỳ sống cách chúng ta hai mươi bốn thế kỷ ở phương trời xa lạ tôi hân hạnh giới thiệu sau Platon, thày dạy của ông. Nếu biết ông rồi, độc giả khỏi bận tâm; nếu chưa biết ông, độc giả cũng đừng thắc mắc mà vui lòng theo dõi lời kể mộc mạc, đơn sơ về thân thế cùng sự nghiệp, người người ngưỡng mộ, mến yêu. Thưa, ông là người Hy-lạp, tên Aristote, học trò Platon, thày dạy Alexander, xuất hiện trên trần gian 62 năm, rồi ra đi vĩnh viễn, không bao giờ trở lại, học giới Tây phương hơn hai ngàn năm coi là triết gia khai phóng đã mở đường vạch lối suy tư theo đó tư tưởng con người sau đó cất bước. Ông chào đời ở Stagira, thành phố thuộc Macedonia[1] cách Athens hơn ba trăm cây số về phía Bắc năm 384 tcn. Thân phụ là thân hữu đồng thời ngự y của vua Amyntas xứ Macedonia và ông nội Alexander. Theo lời truyền ông dường như cũng muốn trở thành hội viên gia đình y học, do nuôi dưỡng trong không khí y khoa như nhiều nhà tư tưởng đương thời tắm gội trong môi trường triết học; ông có cơ hội và động lực để phát triển tài năng, song khi phát triển chẳng hiểu sao tài năng lại nghiêng về khoa học; từ đó ông sẵn sàng trở thành người xây dựng khoa học, và là người xây dựng đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Sự nghiệp lừng lẫy, có một không hai, ấy thế mà tiểu sử người sau biết lại rất sơ sài, đôi khi có thể nói mâu thuẫn, bất nhất, chồng chéo, chắp nối, vá víu, thật khó tin. Chuyện kể lúc trẻ tuổi ông sống phóng đãng, gia nhập quân đội để khỏi chết đói, trở về Stagira hành nghề thày thuốc, năm ba mươi tuổi xuống Athens theo học Platon, nghiền ngẫm triết học. Chuyện kể năm mười tám tới Athens, như biết bao thanh niên hiếu học cùng trang lứa muốn tiến thân trên đường đời gập ghềnh, trắc trở, ông chân thành thụ giáo đại sư, thời gian khá lâu; dẫu thế ngay cả chuyện có vẻ thực này, theo G. Grote trong Aristotle (1872) và E. Zeller trong Aristotle and the Earlier Peripa-tetics (Aristote và triết sinh tiêu dao buổi đầu, 1897), người sau vẫn thấy bóng dáng chàng trai khinh suất, sống hấp tấp, liều lĩnh. Tuy nhiên, độc giả sẽ hài lòng khi thấy trong cả hai chuyện bông hoa thác loạn cuối cùng hạ neo cắm sào dừng thuyền trong bến bờ yên tịnh, miệt mài trau giồi trí thức giảng dạy trong Học Viện Platon sáng lập. Chuyện kể thời gian ở Athens ông mở trường dạy học, đặc biệt môn hùng biện nhằm cạnh tranh với Isocrates, diễn giả lừng danh đương thời; trong số học sinh có Hermias […]
Giới thiệu Đạo đức Luận – Aristote
Đỗ Khánh Hoan Đi vào tác phẩm này, nếu là lần đầu, độc giả sẽ làm quen với nhà tư tưởng phong phú lạ kỳ sống cách chúng ta hai mươi bốn thế kỷ ở phương trời xa lạ tôi hân hạnh giới thiệu sau Platon, thày dạy của ông. Nếu biết ông rồi, độc giả khỏi bận tâm; nếu chưa biết ông, độc giả cũng đừng thắc mắc mà vui lòng theo dõi lời kể mộc mạc, đơn sơ về thân thế cùng sự nghiệp, người người ngưỡng mộ, mến yêu. Thưa, ông là người Hy-lạp, tên Aristote, học trò Platon, thầy dạy Alexander, xuất hiện trên trần gian 62 năm, rồi ra đi vĩnh viễn, không bao giờ trở lại, học giới Tây phương hơn hai ngàn năm coi là triết gia khai phóng đã mở đường vạch lối suy tư theo đó tư tưởng con người sau đó cất bước. Ông chào đời ở Stagira, thành phố thuộc Macedonia[1] cách Athens hơn ba trăm cây số về phía Bắc năm 384 tcn. Thân phụ là thân hữu đồng thời ngự y của vua Amyntas xứ Macedonia và ông nội Alexander. Theo lời truyền ông dường như cũng muốn trở thành hội viên gia đình y học, do nuôi dưỡng trong không khí y khoa như nhiều nhà tư tưởng đương thời tắm gội trong môi trường triết học; ông có cơ hội và động lực để phát triển tài năng, song khi phát triển chẳng hiểu sao tài năng lại nghiêng về khoa học; từ đó ông sẵn sàng trở thành người xây dựng khoa học, và là người xây dựng đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Sự nghiệp lừng lẫy, có một không hai, ấy thế mà tiểu sử người sau biết lại rất sơ sài, đôi khi có thể nói mâu thuẫn, bất nhất, chồng chéo, chắp nối, vá víu, thật khó tin. Chuyện kể lúc trẻ tuổi ông sống phóng đãng, gia nhập quân đội để khỏi chết đói, trở về Stagira hành nghề thày thuốc, năm ba mươi tuổi xuống Athens theo học Platon, nghiền ngẫm triết học. Chuyện kể năm mười tám tới Athens, như biết bao thanh niên hiếu học cùng trang lứa muốn tiến thân trên đường đời gập ghềnh, trắc trở, ông chân thành thụ giáo đại sư, thời gian khá lâu; dẫu thế ngay cả chuyện có vẻ thực này, theo G. Grote trong Aristotle (1872) và E. Zeller trong Aristotle and the Earlier Peripa-tetics (Aristote và triết sinh tiêu dao buổi đầu, 1897), người sau vẫn thấy bóng dáng chàng trai khinh suất, sống hấp tấp, liều lĩnh. Tuy nhiên, độc giả sẽ hài lòng khi thấy trong cả hai chuyện bông hoa thác loạn cuối cùng hạ neo cắm sào dừng thuyền trong bến bờ yên tịnh, miệt mài trau giồi trí thức giảng dạy trong Học Viện Platon sáng lập. Chuyện kể thời gian ở Athens ông mở trường dạy học, đặc biệt môn hùng biện nhằm cạnh tranh với Isocrates, diễn giả lừng danh đương thời; trong số học sinh có Hermias gia […]
CÁ TÍNH CỦA PUBLIUS: TÁC GIẢ CỦA LUẬN CƯƠNG LIÊN BANG (Federalist Papers)
Nông Duy Trường Ngày nay chúng ta đều biết Luận cương Liên bang, gồm 85 luận cương do Alexander Hamilton, James Madison và John Jay trứ tác dưới cùng một bút hiệu “Publius,”[1] trong khoảng thời gian từ tháng Mười 1787 đến tháng Năm, 1788.[2] Người dân Mỹ không biết căn cước thực của Publius mãi cho đến khi những Luận cương này xuất hiện dưới ấn bản tiếng Pháp vào năm 1792. Mặc dầu ta không thể biết được công chúng lúc đó có nghi ngờ rằng Publius có phải là một người hay không, nhưng âu cũng là điều hợp lý khi đặt câu hỏi liệu những tính cách khác nhau của ba tác giả này có được phản ảnh qua bài viết của họ? Để trả lời câu hỏi này trước hết ta sẽ xem xét cá tính—tổng hợp của gia thế, đức tính, và lối sống của các tác giả—được thể hiện như thế nào qua văn phong; và thứ hai, vì trong số ba tác giả và 85 luận cương này, Hamilton là tác giả viết nhiều nhất (51 bài), Madison (29 bài) và Jay (5 bài), ta sẽ tập trung vào những bài do Hamilton và Madison viết. Hamilton xuất thân là dân thành thị và là một di dân, ông không có quan hệ gì với bất cứ tiểu bang nào. Ông cũng là một người quốc gia nhiệt thành ủng hộ quan điểm xây dựng một chính quyền quốc gia (trung ương) mạnh. Madison, ngược lại, xuất thân từ gia đình địa chủ, danh gia thế phiệt của tiểu bang Virginia, có thiên hướng trung thành với quyền của tiểu bang. Không những khác biệt nhau về xuất thân và gia thế, hai tác giả còn khác nhau xa về tính tình.[3] Hamilton là một người hướng ngoại, nhiệt thành, đầy năng lực và cảm xúc, trong khi đó Madison là một người hướng nội, kín đáo và dè dặt.[4] Với những sự khác biệt về tính tình và xuất thân như vậy, ta có thể nghĩ rằng những bài xã luận của họ cũng sẽ phản ánh sự khác biệt về cá tính. Thế nhưng, trái lại, khởi đi từ Luận cương đầu tiên đến luận cương cuối cùng, bắt đầu với Luận cương thứ nhất qua đó Hamilton trình bày những điểm chính sẽ được thảo luận, cả hai tác giả đều thể hiện sự hài hoà trong lý luận và văn phong. Trong 14 luận cương đầu tiên, hai tác giả thay phiên nhau giải thích cho công chúng những lợi điểm của bản hiến pháp mới, từ việc duy trì an ninh nội bộ đến sự ổn định mậu dịch với nước ngoài. Sau Luận cương số 9 do Hamilton viết ngày 21 tháng 11, 1787, Madison viết tiếp Luận cương số 10 vào ngày 22 tháng 11; đây là một trong vài luận cương nổi tiếng nhất trong 85 bài (đây cũng là luận cương đầu tiên do Madison chấp bút). Madison tiếp tục chủ đề Hamilton đã trình bày ở Luận cương 9—“Một liên bang bền […]
Tại sao Phản kháng Dân sự có hiệu quả — Lý luận chiến lược về phản kháng bất bạo động
Tác giả LGT: Bài viết này là phần trích dịch từ tài liệu nghiêu cứu dài 22 trang của hai tác giả Maria J. Stephan và Erica Chenoweth. Maria J. Stephan là Giám đốc Các Chương trình Giáo dục (Director of Educational Initiatives) tại Trung tâm Quốc tế về Chống đối Bất bạo động( International Center on Nonviolent Conflict). Erica Chenoweth là Phó giáo sư Khoa Chính quyền (Assistant Professor of Government) tại Wesleyan University và là Nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ (Postdoctoral Fellow) tại Trung tâm Khoa học và Bang giao Quốc tế Belfer (Belfer Center for Science and International Affairs) trong trường John Kennedy về Chính quyền (John F. Kennedy School of Government) trường Đại học Harvard. *** Trong thời gian vừa qua, các cuộc tranh luận của các nhà nghiên cứu về sự hiệu nghiệm của các phương pháp tranh đấu thường bao hàm giả định là phương pháp hiệu nghiệm nhất để tiến hành đấu tranh chính trị là có bạo động. Trong số các nhà khoa học chính trị, phần lớn có quan điểm là các phong trào chống đối thường lựa chọn các phương pháp bạo động bởi vì các phương pháp đó hiệu nghiệm hơn các chiến lược bất bạo động để đạt được mục đích. Mặc dầu có những giả định như vậy, nhưng từ năm 2000 tới 2006 các tổ chức dân sự đã thường thành công trong việc chống đối bằng phương pháp bất bạo động—bao gồm những hình thức như tẩy chay, đình công, biểu tình phản kháng và bất hợp tác có tổ chức — để thách thức chính quyền ngoan cố và đã đạt được những sự nhân nhượng về chính trị tại Serbia (2000), Madagascar (2002), Georgia (2003), Ukraine (2004 – 05), Lebanon (2005) và Nepal (2006). Sự thành công của các phong trào bất bạo động này — đặc biệt là so với những các cuộc nổi dậy bạo động kéo dài ở trong cùng một nước — khiến cho chúng ta cần tìm hiểu sự kiện này một cách có hệ thống. Các tài liệu hiện hữu giải thích tại sao các phong trào bất bạo động là những phương tiện hiệu nghiệm để chống đối. Tuy nhiên, có rất ít tài liệu nghiên cứu một cách toàn diện và phân tích tất cả những điều đã quan sát được trong các cuộc chống đối bạo động và bất bạo động để so sánh hai loại chống đối này. Tài liệu khảo cứu này nhằm bổ túc sự thiếu sót đó bằng cách tìm hiểu một cách có hệ thống sự hiệu nghiệm về chiến lược trong các phong trào bạo động và bất bạo động trong những cuộc chống đối giữa chính quyền và các tổ chức ngoài chính quyền, dựa trên những dữ kiện tổng hợp về các phong trào chống đối bạo động hoặc bất bạo động lớn từ năm 1900 đến năm 2006. Để tìm hiểu những cơ chế tạo ra kết quả khác biệt, chúng tôi cũng so sánh các dữ kiện thống kê với các trường hợp […]
Cuộc Đàm Luận giữa Khổng Tử và Tiến Sĩ John Dewey
Dr. Lih-Ching Chen Wang LGT: Một cuộc đàm luận lý thú giữa Khổng Tử và John Dewey, dĩ nhiên trong tưởng tượng, nhưng qua đó tác giả đã nêu lên được những điểm tương đồng cũng như khác biệt trong triết lý giáo dục giữa hai nhà giáo dục hàng đầu của Trung Hoa và Hoa Kỳ. Điều thú vị là những lời đối đáp của Khổng Tử đều rút ra từ các sách Đại Học và Luận Ngữ.[1] Thời gian: 7 tháng 12, 1951. Không gian: Quê hương của Khổng Tử, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Hoa Khổng Tử: Cung Thỉnh, Tiến sĩ Dewey! “Có những bằng hữu ham mộ đạo lý, nghe tiếng mình là người học cao đức lớn, chẳng ngại đường xa đến viếng mình, há không lấy đó làm vui sao?”[2] Dewey: Thưa Phu Tử, thật là vui thú lắm. Đây cũng là một sự thay đổi trong những việc thường ngày của tại hạ tại Mỹ. Khổng Tử: Theo những đệ tử của ta nghiên cứu thì ngài là một trong những triết gia và nhà giáo dục có ảnh hưởng lớn nhất của Mỹ quốc. Ta rất hân hạnh được ngài ghé thăm tệ xá. Dewey: Xin mượn lời của Phu Tử: “Kẻ nào miệng nói lời hoa mỹ, còn mặt mày thì trau chuốt, hình dạng thì kiểu cách, áo quần thì lòe loẹt, kẻ ấy hẳn kém lòng nhân.”[3] Ha ha…Xin đùa Sư Phụ một chút. Khổng Tử: Ta cũng xuýt nữa thì nổi giận rồi đó. “Bậc quân tử nếu chẳng tự trọng, thì chẳng được oai nghiêm, người ta không kính nể, rồi ra sự học vấn của mình không được kiên cố…Chẳng nên làm bạn với kẻ chẳng như mình.”[4] Ngay cả đệ tử của ta là Tăng Tử còn nói: “Hằng ngày ta tự xét mình,…, làm việc với ai ta có hết lòng hay chăng?”[5] Dewey: Xin cám ơn Sư Phụ. Ngài nghiêm trang quá, không có tính khôi hài tí nào. Vậy thì tại hạ xin hỏi ngài một chuyện thành thật, nghiêm túc: Đại học là cái gì? Nghĩa là, mục đích của đại học là để làm gì? Khổng Tử: Đại học dạy như vầy: “Trước hết phải làm sáng tỏ cái đức của mình, rồi dùng cái đức đó cải cách cho mọi người, rồi nên nhắm mức trọn lành mà theo và ở yên nơi mức ấy.”[6] Dewey: Xin ngài khai triển thêm. Khổng Tử: “Các vị vua thuở xưa muốn làm cho cái đức của mình tỏ sáng ra trong thiên hạ, trước phải lo sửa trị nước mình. Muốn sửa trị nước mình, thì phải tề gia trước. Muốn tề gia thì phải tu thân trước. Muốn tu thân thì phải làm cho ý mình trở nên thành thật. Muốn làm cho ý mình trở nên thành thật phải có tri thức chu đáo. Muốn có tri thức chu đáo ắt phải nghiên cứu sự vật.”[7] Dewey: Đúng vậy, tri thức được mở rộng nằm ở chỗ nghiên cứu sự vật. Thế còn gì nữa, thưa Phu […]
Đạo Đức và Luân Lý Đông Tây
Đạo Đức và Luân Lý Đông Tây Phan Chu Trinh (Bài diễn thuyết của cụ Phan Chu Trinh diễn tại nhà hội Việt Nam ở Sài gòn, đêm 19.11.1925)(*) Thưa các anh em đồng bào! Anh em đồng bào thấy tôi là người tuổi tác, ở lâu năm bên Pháp về, anh em đồng bào có lòng quá yêu, nhường cho tôi bước đầu lên diễn đàn nhà hội “Việt Nam” ta đây, để tỏ ý kiến là hy vọng của tôi đối với xã hội Việt Nam ta từ ấy đến giờ, thì tôi rất lấy làm cảm tạ vô cùng. Không nói, tưởng anh em đồng bào cũng đã biết tôi vì quyền lợi của dân tộc Việt Nam mà phải lăn lóc đến mười tám năm nay. Trong khoảng 18 năm đó (hơn 14 năm ở Pháp) thường mong mỏi được gặp mặt anh em đồng bào cố hương, đặng tỏ chút ý kiến về những sự đã được nghe thấy trong khi tôi trôi nổi nơi đất khách quê người. Không ngờ giấc mộng được thành, trở về nơi chôn nhau cắt rốn, giáp mặt anh em đông đủ thế này. Tôi mừng quá. Thưa anh em đồng bào, nay tôi đã được gặp anh em đông đủ ở đây, tôi xin anh em cho phép tôi được giải bày đôi chút ý kiến về “Đạo đức luân lý Đông Tây” mà mong rằng anh em để ý hiểu cho. Đáng lẽ theo thời nay, không thiếu chi vấn đề rất quan trọng làm rung động các dân tộc trên toàn cầu, tôi có thể nói chuyện cùng anh em được, thế mà tôi lại không lựa đến mấy vấn đề mới mẻ ấy, chỉ chọn lấy cái vấn đề “Đạo đức và luân lý” rất tầm thường mà rất cũ kỹ thế này. Tôi chọn lấy vấn đề này, là vì tôi tưởng rằng từ xưa đến nay bất cứ dân tộc nào, bất luận quốc gia nào, dầu vàng, dầu trắng, dầu yếu, dầu mạnh, đã đứng cạnh tranh hơn thua với các dân tộc trên thế giới thì chẳng những thuần nhờ sức mạnh thôi, mà phải nhờ cái đạo đức làm gốc nữa; nhất là dân tộc nào bị té nhào xuống, nay muốn đứng lên khỏi bị người đè lên trên thì lại cần có một đạo đức vững chặt hơn dân tộc đang giàu mạnh hơn mình. Câu chuyện đạo đức tôi sẽ giải ra sau này không cao xa gì, mà cũng không như câu chuyện đạo đức các ông thuộc về phái thủ cựu thường đã nói. Đạo đức đây chỉ là: “Phàm đã là một dân tộc sinh tồn trên hoàn vũ, đã có một lịch sử chính đáng, thì phải giữ gìn những sự vẻ vang trong lịch sử của dân tộc mình”, nghĩa là giữ lấy những đức hay tính tốt mấy trăm nghìn năm ông cha để lại, khiến cho nuớc nào dân tộc nào đối với mình cũng đem lòng kính trọng. Nói tóm lại là một cái tính chất của một dân […]
Tự Do Luận
LỜI GIỚI THIỆU Tự Do Luận là một trong hai cuốn sách tạo nên rất nhiều tranh cãi trong học giới khi ra đời trong thế kỷ thứ mười chín. Cuốn thứ nhất là Tuyên ngôn Cộng sản do Karl Marx viết năm 1848 và lý thuyết cộng sản ngày nay đã bị chứng minh là một chủ thuyết không tưởng và hầu như đã đi vào quên lãng. Tự Do Luận, trái lại, được John Stuart Mill viết năm 1858 và đã tạo nên biết bao cuộc tranh luận, ủng hộ cũng có mà chỉ trích cũng có cho đến tận hôm nay. Tác phẩm này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nước Nhật khi canh tân đã tìm cách dịch những tác phẩm về khoa học, văn học, và triết học của Tây phương sang tiếng Nhật. Riêng Tự Do Luận đã được dịch sang tiếng Nhật, ít nhất là tám lần qua các năm 1871, 1895, 1914, 1925, 1946, 1947, 1967, và 1971 (Trần Văn Thọ, 2011). Tác phẩm Tự Do Luận gồm có năm chương. Trong chương Dẫn nhập Mill xác định đề tài của tiểu luận là tác phẩm này chỉ bàn về tự do xã hội và dân sự cùng với vấn đề muôn thuở là xã hội có thể áp đặt một cách hợp pháp quyền lực nào trên những cá nhân mà thôi. Lược qua sự phát triển của khái niệm tự do từ thời cổ Hy-lạp, La-mã, và Anh quốc, Mill lập luận rằng tự do có nghĩa là “một sự che chở đối với bạo quyền của giới cai trị. Giới cai trị và kẻ bị trị đương nhiên ở vào những vị trí đối nghịch nhau.” Quyền lực chính trị được coi là điều xấu xa nhưng cần thiết (le mal necessaire), quan trọng nhưng cũng rất nguy hiểm; cho nên, người dân phải tìm cách giới hạn quyền lực chính trị bằng cái gọi là “những quyền tự do chính trị.” Nếu người lãnh đạo chính trị vi phạm những quyền tự do này, người dân có quyền nổi lên để chống lại. Còn một phương pháp khác là dùng những giới hạn của hiến pháp để cho những quyết định của người lãnh đạo phải có sự đồng ý của nhân dân hay qua đại biểu của họ. Sự tiến hóa này dẫn đến việc thành lập chính quyền theo đại biểu, có nghĩa là viên chức chính quyền được bầu ra và có thể bị triệu hồi “viên chức khác nhau của Quốc Gia phải là những người được họ chọn hoặc bầu ra để làm việc, những người được họ ủy quyền mà họ muốn bãi chức lúc nào cũng được. Họ cho rằng, chỉ với cách đó, họ mới có thể an tâm là không bao giờ bị chính quyền hiếp đáp.” Tuy nhiên, Mill nhận thức được rằng còn có một sự chuyên chế khác không kém nguy hiểm; đó là sự chuyên chế của số đông (tyranny of the majority): những từ ngữ như “chế độ tự trị” hay “quyền của […]
Luận cương 6
Luận về Những Nguy cơ Mâu thuẫn giữa các Tiểu bang Alexander Hamilton Cùng đồng bào tiểu bang new York: Ba bài tham luận vừa qua đã được dành để liệt kê những nguy cơ mà chúng ta, nếu còn ở trong tình trạng phân hóa, sẽ phải đối phó với sức mạnh quân sự và âm mưu của ngoại bang. Sau đây, tôi sẽ trình bày những nguy cơ thuộc một loại khác, và, có lẽ, còn đáng sợ hơn nhiều – đó là những nguy cơ đến từ những sự bất đồng giữa chính các Tiểu bang, và từ những xung đột phe nhóm nội bộ. Trong một số trường hợp, những nguy cơ loại này cũng đã từng được tiên liệu; tuy nhiên ta cũng cần phải phân tích và nghiên cứu kỹ càng hơn. Kẻ nào mà còn có thể nghi ngờ rằng sự phân hóa giữa các tiểu bang, gây nên bởi sự thiếu kết hợp toàn phần hay chỉ từng phần, sẽ không tạo nên các cuộc tranh đấu bạo lực với nhau, thì kẻ đó thật là kẻ suy nghĩ vẩn vơ, không tưởng. Còn cho rằng các tiểu bang không có động cơ để tranh đấu với nhau để lập luận rằng những sự tranh cạnh như vậy không xảy ra, thì cũng đã quên mất rằng bản chất con người là ham muốn danh vọng, sân hận, và tham lam của cải. Còn nếu mà cứ muốn tìm một sự hài hòa liên tục giữa một số các nước độc lập nhưng không có liên hệ gì với nhau, lại cùng ở trên một lãnh thổ, tức là đã coi thường tiến trình không thay đổi trong sinh hoạt của loài người, và thách thức túi khôn của nhân loại đã được tích lũy qua thời gian. Có rất nhiều lý do gây chiến giữa các quốc gia. Có những lý do đã trở thành gần như là hệ quả tất nhiên của quan hệ giữa một tập thể các đơn vị trong xã hội. Những lý do này gồm có lòng yêu chuộng quyền thế, hay là lòng ham muốn lấn át và thống trị người khác hay lòng ganh ghét quyền lực, hoặc sự khát khao có sự bình đẳng và an ninh. Có nhiều lý do khác với những động lực giới hạn hơn, nhưng cũng có tác dụng tương tự trong phạm vi giới hạn đó. Đó là những tranh chấp và cạnh tranh thương mại giữa các nước với nhau. Cũng còn có những lý do khác, cũng không kém hơn những loại lý do trên, và đều phát xuất từ những động lực cá nhân; từ những mối ràng buộc, thù hận, quyền lợi, hy vọng hay lo sợ của những người lãnh đạo trong những cộng đồng riêng biệt của họ. Những người loại này, dù được vua chúa hay nhân dân tin cậy, đều có cơ hội để lợi dụng lòng tin mà họ đã được trao cho; và giả danh vì lợi ích chung, họ chẳng ngần ngại gì mà chẳng […]
Luận Cương Liên Bang
THE FEDERALIST PAPERS Luận Cương về Thể chế Liên Bang LỜI GIỚI THIỆU Trong lịch sử dựng nước của các dân tộc trên thế giới, Liên bang Hoa Kỳ là một quốc gia đầu tiên có cơ may thiết lập một thể chế chính trị hoàn toàn do người dân chọn lựa ngay từ những buổi đầu dựng nước. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, thể chế Cộng hòa Liên bang Hoa Kỳ được quy định trong bản Hiến Pháp nguyên thủy vẫn còn trường tồn cho đến ngày nay. Những nguyên tắc chỉ hướng được xác định trong bản hiến pháp này đã được nhiều nước trên thế giới dùng làm mẫu mực, vì phản ảnh được ước vọng căn bản của con người, là được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc. Bản Hiến Pháp Liên bang Hoa Kỳ được soạn thảo trong một hoàn cảnh đặc biệt, vào lúc người dân sống tại 13 đơn vị lãnh thổ thuộc địa Bắc Mỹ của Anh Hoàng đang phải chiến đấu chống lại ách thống trị của Đế Quốc Anh. Kể từ khi được soạn thảo xong, vào ngày 17 tháng Chín 1787- sáu năm sau khi cuộc Cách mạng giành Độc lập thành công – cho đến khi được phê chuẩn bởi tiểu bang cuối cùng là Rhode Island vào ngày 29 tháng Năm 1790, bản Dự thảo Hiến Pháp Liên Bang Hoa Kỳ đã phải trải qua những giai đoạn tranh luận gay go giữa hai quan điểm hoàn toàn khác biệt nhau về vai trò và cơ cấu tổ chức guồng máy chính quyền trung ương để điều hành công việc quốc gia. Trong các hội nghị quy tụ đại biểu của 13 đơn vị lãnh thổ cựu thuộc địa của Anh Hoàng tại Bắc Mỹ để thảo luận và thông qua Dự thảo Hiến pháp nói trên, những cuộc tranh luận giữa hai khuynh hướng đối chọi nhau về cơ cấu và vai trò của chính quyền liên bang tương lai đã diễn ra quyết liệt. Một số lớn đại biểu các cựu thuộc địa cổ võ cho việc thành lập một chính quyền trung ương mạnh ở cấp liên bang, trong khi đó, một số đại biểu khác cũng đã cực lực chống đối giải pháp này. Theo những người sau, thể chế liên hiệp tiểu bang là giải pháp thích hợp và dễ điều hành hơn do phạm vi lãnh thổ thu hẹp trong một vài tiểu bang nối liền với nhau về địa lý. Dư luận quần chúng tại các lãnh thổ cựu thuộc địa này cũng chia ra theo hai khuynh hướng khác biệt nói trên. Đối với một số người dân của 13 thuộc địa Bắc Mỹ tham gia vào cuộc chiến đấu chống lại Đế quốc Anh Hoàng, cuộc cách mạng giành độc lập vào năm 1776 tiêu biểu cho một cuộc chiến đấu chống lại chế độ thực dân độc tài để giành quyền tự do sinh hoạt và định đoạt tương lai của người dân. Nhóm chống đối thể chế liên bang được […]