MICHAEL WATTS Michael Watts tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh Tế tại Đại học Louisiana năm 1978. Ông hiện là giám đốc Trung Tâm Giáo Dục Kinh Tế và giáo sư Kinh Tế học của Đại học Purdue tại West Lafayette, Indiana. Ông cũng là một biên tập viên cho Tạp Chí Giáo Dục Kinh Tế. Giáo sư Watts đã xuất bản nhiều nghiên cứu thực nghiệm (sử dụng thống kê học) để hướng dẫn sinh viên và sinh viên dự bị học ngành Kinh Tế học và để đánh giá những chương trình giáo dục cũng như phương tiện giáo dục và giảng viên. Những tiểu luận của ông đã xuất hiện trong Tạp Chí Kinh Tế và Thống Kê và Tạp Chí Giáo Dục Kinh Tế và nhiều tạp chí khác. Giáo sư Watts cũng viết nhiều sách giáo khoa về Kinh Tế học cho trình độ đại học và trung học. GIỚI THIỆU Qua quá trình lịch sử, mỗi xã hội đều đối diện với một vấn đề kinh tế cơ bản là quyết định sản xuất sản phẩm nào và cho ai với những nguồn tài nguyên giới hạn. Trong thế kỷ 20, hai hệ thống kinh tế, một cách tổng quát có thể nói là cạnh tranh nhau, đã đưa ra hai câu trả lời khác nhau: những nền kinh tế chỉ huy điều khiển bởi chính quyền trung ương và những nền kinh tế thị trường dựa trên những công ty tư nhân. Cuối thế kỷ 20 thì người dân trên toàn thế giới đã thấy rõ ràng nền kinh tế trung ương chỉ huy đã không làm phát triển được nền kinh tế, không đạt đến mức thịnh vượng hay ngay cả không cung cấp được sự an sinh kinh tế cho người dân. Thế mà những nguyên tắc căn bản và cơ cấu của nền kinh tế thị trường vẫn còn chưa quen thuộc hay vẫn còn bị hiểu lầm bởi nhiều người, dù những sự thành công của nó đã thể hiện ở nhiều xã hội khác biệt hẳn nhau, từ Tây Âu tới Bắc Mỹ và Á Châu. Một phần là vì nền kinh tế thị trường không phải là một chủ thuyết mà chỉ là một tập hợp những hoạt động và những định chế đã được thử thách với thời gian về cách thức theo đó những cá nhân và xã hội có thể sống và phát triển phồn vinh về phương diện kinh tế. Bản chất tiên quyết của những nền kinh tế thị trường là phân quyền, uyển chuyển, thực tiễn và thay đổi được. Yếu tố trung tâm của những nền kinh tế thị trường nằm ở chỗ nó không có trung tâm. Thật thế, một trong những ẩn dụ cho thị trường tư nhân được gọi là thị trường của “bàn tay vô hình.” Những nền kinh tế thị trường có thể là thực tiễn nhưng nó cũng dựa trên nguyên tắc cơ bản là quyền tự do cá nhân: khách hành tự do chọn lựa trong số những sản phẩm hay dịch vụ cạnh […]
Huyền thoại về Chủ nghĩa Xã hội kiểu Scandinavia
Corey Iacono Bernie Sanders [ứng viên tổng thống của đảng Dân chủ] đã tự mình mang thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội dân chủ” (“democratic socialism”) vào từ vựng chính trị Mỹ đương thời và làm rung động hàng triệu người ở thế hệ thiên niên kỷ [1] khiến họ thôi không còn hờ hững đối với chính trị. Ngay cả nếu ông không được đảng Dân chủ đề cử, ảnh hưởng của ông lên chính trị Mỹ sẽ trở nên rõ ràng trong những năm tới. Sanders đã thuyết phục được nhiều người rằng đối với đa số người Mỹ tình hình đã trở nên rất tệ, từ lâu rồi. Giải pháp của ông là gì? Mỹ phải đi theo “chủ nghĩa xã hội dân chủ,” một hệ thống kinh tế xã hội dường như vận hành rất hiệu quả ở các nước Scandinavia [2], như Thụy Điển, nước mà, theo một số tiêu chuẩn nào đó, tốt hơn Mỹ. Chủ nghĩa xã hội dân chủ chủ trương kết hợp quy tắc đa số với kiểm soát của nhà nước về phương tiện sản xuất. Tuy nhiên, các nước Scandinavia không phải là những ví dụ tốt về chủ nghĩa xã hội dân chủ trên thực tế bởi vì các nước đó không phải là xã hội chủ nghĩa. Trong các nước Scandinavia, giống như tất cả các quốc gia phát triển, các phương tiện sản xuất được sở hữu chủ yếu bởi các cá nhân, chứ không phải bởi cộng đồng hay chính phủ, và các tài nguyên được phân bổ đến người dùng thông qua thị trường, chứ không phải bởi kế hoạch của chính phủ hay cộng đồng. Trong khi đúng là các nước Scandinavia cung cấp những thứ như mạng lưới an sinh xã hội hào phóng và chăm sóc sức khỏe phổ thông, thì một nhà nước phúc lợi rộng rãi không phải là thứ tương tự như chủ nghĩa xã hội. Điều mà Sanders và những người ủng hộ ông lầm tưởng là chủ nghĩa xã hội thực ra là dân chủ xã hội (social democracy), một hệ thống trong đó chính phủ nhắm đến xúc tiến phúc lợi chung thông qua thuế má và chi tiêu cao, bên trong cơ cấu của một nền kinh tế tư bản. Đây là điều mà các nước Scandinavia thực hiện. Đối với những người Mỹ hay cho rằng Đan Mạch là một nước theo xã hội chủ nghĩa, mới đây, trong một bài giảng tại Trường Chính phủ Kenedy của Đại hoc Harvard, thủ tướng Đan Mạch đã nói như sau: “Tôi biết rằng một số người ở Mỹ liên kết mô hình Bắc Âu với thể loại nào đó của chủ nghĩa xã hội. Bởi thế, tôi muốn nói cho rõ một điều. [Đó là,] Đan Mạch khác xa với nền kinh tế được hoạch định mang tính xã hội chủ nghĩa. Đan Mạch là một nền kinh tế thị trường.” Các nước Scandinavia mang nhãn hiệu của chủ nghĩa tư bản thị trường tự do tồn tại trong sự kết hợp với một […]
Tại Sao Nước Mỹ Lại Không Dạy Đức Dục?
**** Lời Mở Đầu Đức Dục là một môn học mà hầu như nước nào cũng có, tuy tên gọi có khác nhau tùy theo từng nước; có nước gọi là đạo đức học, có nơi lại gọi là giá trị học. Tại 31 nước Âu châu, có nước bắt buộc học sinh phải học, có nước cho vào môn nhiệm ý bắt buộc (Korim & Hanasova, 2010). Trong chương trình giáo dục của các nước Đông Nam Á, gồm 11 nước, cũng có môn đức dục (Southeast Asian Ministers of Education Organization – SEAMEO). Riêng tại Việt Nam, môn luân lý đã được đưa vào trong chương trình giáo dục tiểu học từ năm 1941 với cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư lớp sơ đẳng do Nha Học Chính Đông Pháp ấn hành. Giáo dục, nói chung, có thể quy vào ba lãnh vực chính là trí dục, thể dục, và đức dục. Ai cũng nhận thấy tầm quan trọng của đức dục; nhà nước nào cũng hô hào phải dạy dỗ và rèn luyện nhân cách, đức tính cho con em từ thuở nhỏ. Nhưng trong những thập niên gần đây, hầu như trên toàn thế giới đều xảy ra một hiện tượng đáng báo động là tình trạng “hư hỏng” của học sinh, thí dụ như bạo lực, gian lận thi cử, hỗn láo trong học đường tại Nhật Bản trong cuối thập niên 1990, tại Indonesia và Việt Nam trong những năm gần đây khi báo chí tường thuật những vụ bạo hành, đánh lộn, gian lận thi cử trong giới học sinh (Tsuneyoshi, 2001; Postscript, 2011). Nước Mỹ cũng không là trường hợp ngoại lệ. Phong trào phản chiến và hippie của thập niên 1960 và 1970 đã khiến cho giới trẻ tại Mỹ hoài nghi về tất cả mọi giá trị xã hội và sống một cuộc sống buông thả tới mức báo động (Beachum &McCray, 2005). Tình trạng báo động này khiến một số nhà giáo dục, tổ chức xã hội thiện nguyện, đã phải họp lại tại Aspen, Colorado năm 1992 để tìm cách đối phó.[1] Kết quả là một phong trào Đức Dục, do những cá nhân và hội đoàn thiện nguyện cổ xúy, đã được phát triển tại Mỹ cho đến ngày nay. Câu hỏi được đặt ra là tại sao lại không có môn đức dục chính thức trong chương trình giáo dục phổ thông tại Mỹ? Những lý do nào đã khiến môn đức dục bị “đẩy” ra ngoài chương trình giáo dục phổ thông của Mỹ? Hiện tượng thiếu vắng môn đức dục tại Mỹ là kết quả của sự tác động và ảnh hưởng của nhiều triết lý giáo dục và chính sách của nhà nước đối với nền giáo dục phổ thông. Những động thái này cùng với nỗ lực của những tổ chức xã hội dân sự, phi chính phủ (civil society organization-CSO) trong lãnh vực phát huy và rèn luyện đức dục cho học sinh tại Mỹ, sẽ được phân tích và giải thích trong bài viết này. Đức Hạnh và Đức Dục […]
Đừng Sợ: Lòng Can Đảm và Những Nguyên Tắc Đạo Đức Công Dân
“Đừng sợ” Lòng Can Đảm và Những Nguyên Tắc Đạo Đức Công Dân. Clarence Thomas Thẩm phán Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ Lời Giới Thiệu: Bài viết sau đây được trích từ diễn văn của Clarence Thomas, Thẩm Phán Tòa Án Tối Cao, đọc ngày thứ Ba mùng 6 tháng 2 năm 2001 trong bữa dạ tiệc hàng năm tại Học viện American Enterprice, nơi ông nhận lãnh giải thưởng Francis Boyer. Alexander Hamilton[1] đã viết trong Luận cương Liên bang số 78 “Các quan tòa cần phải có một nghị lực phi thường để làm tròn bổn phận là người bảo hộ trung tín của Hiến Pháp hầu chống lại sự lạm quyền của cơ quan lập pháp, một sự lạm quyền dựa vào tiếng nói đa số của cộng đồng.” Điểm này hiếm khi được chú trọng. Đức tính mà Hamilton chọn ra, nghị lực, là căn bản cho triết lý sống của tôi cả trong cương vị của một quan tòa, và căn bản hơn nữa là trong cương vị một người công dân của đất nước tuyệt vời này. Ngày 1 tháng 7 năm 1991, khi tôi đến nhà Tổng Thống Bush ở Kennebunkport, ông mời tôi vào gặp trong phòng riêng. Trong suốt lần gặp ngắn ngủi đó, ông chỉ hỏi tôi hai điều. Thứ nhất, liệu tôi và gia đình có chịu đựng nổi [áp lực] trong quá trình xác minh lý lịch? Tôi đã trả lời: được, tuy chưa biết điều gì đang chờ đón. Câu hỏi thứ hai chỉ đơn giản rằng khi tôi trở thành một thẩm phán của toà án tối cao, không biết tôi có thể thấy sao thì nói vậy, cũng như không biết tôi có thể phán quyết theo luật pháp chứ không phải theo quan điểm cá nhân ? Về câu hỏi này, tôi cũng trả lời: được. Trong một thế giới hoàn hảo, câu hỏi thứ hai này sẽ là câu hỏi duy nhất mà các thành viên tòa án tối cao phải trả lời cho tổng thống hoặc cho các nhà lập pháp, là những người quyết định sự bổ nhiệm của họ. Các quan tòa, sau đó có thể tập trung năng lực vào thực chất của những quyết định của họ, đó là những điều chiếm hữu hầu hết trí tuệ hay tâm hồn của bất cứ một ai… Tôi mong rằng nó chỉ đơn giản như vậy. Theo thiển ý, những người đến để tham dự vào những cuộc tranh luận quan trọng và những người dám thách thức những kinh nghiệm đã được thừa nhận nên biết rằng mình sẽ bị xử tệ. Tuy nhiên, họ phải đứng vững, phải kiên cường. Đó là điều cần thiết, đó là một thái độ phải có, vì đó chính là sự dũng cảm cần thiết để bảo đảm tự do. Không cần được nhắc, chúng ta cũng biết phải tham gia vào quốc sự nếu thấy rằng những công việc ấy quan trọng và có ảnh hưởng đến cuộc sống của mình. Nhưng ta sẽ tham gia bằng cách […]
Tiếng gõ cửa lúc nửa đêm – MLK
Martin Luther King, Jr. Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: “Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, mà tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả.” (Lu-ca 11: 5-6) Mặc dù câu chuyện ngụ ngôn này liên quan đến sức mạnh của sự cầu nguyện liên lỷ, nhưng cũng có thể được dùng làm căn bản cho sự suy tư của chúng ta về nhiều vấn đề thời sự và vai trò của hội thánh khi phải đối phó với những vấn đề này. Lúc đó là nửa đêm trong câu chuyện ngụ ngôn; nó cũng là nửa đêm trong thế giới của chúng ta, và bóng tối quá dày đặc đến nỗi ta hầu như không còn biết tìm đâu ra phương hướng. Đó là lúc nửa đêm ngay trong trật tự xã hội hiện nay. Trên nền trời quốc tế những nước đang tranh giành với nhau trong một cuộc thi đua lớn lao và gay gắt để đạt vị trí tối thượng. Hai cuộc thế chiến đã xảy ra trong vòng một thế hệ, và những đám mây đen của một cuộc chiến nữa đang vần vũ một cách rất nguy hiểm trên đầu chúng ta. Người ta ngày nay có vũ khí nguyên tử và hạt nhân, những vũ khí mà chỉ trong vài giây có thể tiêu diệt hoàn toàn những thành phố lớn trên thế giới. Nhưng cuộc chạy đua vũ trang vẫn đang tiếp diễn và những cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân vẫn nổ ra trên bầu khí quyển, cùng với một viễn tượng u tối là bầu không khí mà chúng ta đang thở đây sẽ bị nhiễm độc phóng xạ từ những vũ khí này rơi xuống. Liệu những hoàn cảnh và vũ khí như thế này sẽ đưa nhân loại đến chỗ tận diệt chăng? Khi phải đối diện với lúc nửa đên trong trật tự xã hội, chúng ta vẫn thường trong quá khứ hướng về khoa học để xem có cứu được chúng ta không. Và thật là kỳ diệu! Trong nhiều trường hợp khoa học đã cứu chúng ta. Khi chúng ta ở giữa đêm tối của sự hạn chế về thể chất và sự bất tiện nghi của vật chất, khoa học đã đưa chúng ta đến ánh bình minh của sự tiện nghi về vật chất và thể chất. Khi chúng ta ở trong màn đêm và bị què quặt vì sự ngu dốt và mê tín, khoa học đưa chúng ta đến rạng đông của tâm trí khai mở và tự do. Khi chúng ta ở vào lúc nửa đêm của bệnh tật, của những trận dịch bệnh kinh khiếp, khoa học đã qua những phương pháp phẫu thuật, vệ sinh, và thuốc men thần kỳ đã đem lại tia nắng sáng sủa của y khoa, giúp chúng ta kéo dài tuổi thọ và mang lại cho ta sức khỏe tốt hơn và đời sống an […]
Aung San Suu Kyi – Diễn văn nhận Giải Nobel Hòa bình
Kính thưa Đức Vua và Hoàng Hậu, Kính thưa Quý Vị trong Hoàng Gia, Kính thưa Quý Quan Khách, Kính thưa các Thành Viên Đặc Biệt trong Ủy Ban Nobel Na Uy, Các Bạn thân mến, Những năm dài trước đây, [bây giờ nghĩ lại] tưởng như mấy kiếp đã trôi qua, lúc còn ở Đại Học Oxford, tôi từng nghe chương trình “Desert Island Discs” của đài phát thanh cùng với Alexander, con trai nhỏ của tôi. Đó là một chương trình nổi tiếng (theo tôi biết, đến nay vẫn còn tiếp tục) trong đó, những người lừng danh từ mỗi thành phần của xã hội được mời tham dự để nói về trường hợp nếu chẳng may bị lưu đày nơi hoang đảo và họ chỉ có thể mang theo tám đĩa nhạc, một quyển sách-không phải là Kinh Thánh và toàn bộ tác phẩm của văn hào Shakespeare, và một món đồ xa xỉ nào đó mà họ mơ ước có bên mình, thì đó là những thứ nào. Chúng tôi thích thú theo dõi và khi chương trình chấm dứt, Alexander hỏi tôi có nghĩ rằng, một ngày nào đó tôi có thể được mời lên nói chuyện trong chương trình Những Đĩa Nhạc Trên Hoang Đảo. “Tại sao không?” tôi nhẹ nhàng trả lời. Cũng vì biết thường chỉ những nhân vật nổi tiếng mới được mời tham gia vào chương trình này nên cháu tiếp tục hỏi tôi với một sự quan tâm thành thật rằng: lý do gì làm cho tôi nghĩ tôi sẽ được mời? Tôi đắn đo trong giây lát rồi trả lời: “Có lẽ mẹ được giải Nobel về VănChương,” và cả hai mẹ con phá lên cười. Dự đoán này nghe có vẻ thú vị nhưng khó biến thành sự thật. (Giờ đây tôi không thể nhớ vì sao tôi lại trả lời như vậy; có lẽ lúc bấy giờ tôi vừa đọc xong một quyển sách do một tác giả được trao Giải Nobel, hoặc hôm ấy, nhân vật trong chương trình Hoang Đảo là một văn sĩ nổi tiếng.) Năm 1989, khi người chồng, nay đã quá cố, của tôi là Michael Aris đến thăm tôi trong kỳ hạn đầu tiên của thời gian bị quản thúc tại gia, anh đã cho tôi biết là John Finnis, một người bạn, đã đề cử tôi cho Giải Nobel Hòa Bình. Lần này tôi cũng cười. Trong khoảnh khắc, Michael tỏ ra ngạc nhiên nhưng sau đó, anh cũng nghĩ ra được lý do vì sao tôi cười. Giải Nobel Hòa Bình à? Một viễn ảnh đẹp, nhưng khó thành sự thực! Như vậy, tôi có cảm nghĩ như thế nào khi tôi thực sự được trao Giải Thưởng Nobel Hòa Bình? Câu hỏi này được đặt ra với tôi nhiều lần và chắc chắn đây là một cơ hội thích hợp nhất để tôi thẩm định lại xem Giải Nobel có ý nghĩa gì đối với tôi và hòa bình có ý nghĩa như thế nào đối với tôi. Trong những cuộc phỏng vấn, tôi đã lập đi […]
Viết Từ Ngục Birmingham
Martin Luther King Lời Giới Thiệu: Đây là lá thư Mục sư Martin Luther King (MLK) viết từ nhà tù tại Birmingham để trả lời những mục sư da trắng trong Giáo hội Tin Lành về chủ trương và hành động “đấu tranh bất bạo động” cho dân quyền của người Da Đen tại Mỹ. Lá thư viết từ Ngục Birmingham có đầy đủ tính chất của một bài diễn văn tuyệt tác, dù MLK không trình bày bài diễn văn này trước công chúng. * Ngày 16 tháng Tư, năm 1963 Quý vị Mục sư thân mến, Trong lúc này đây, khi tôi đang ngồi trong phòng giam của thành phố Birmingham, tôi đọc được bản tuyên bố gần đây nhất của quý vị cho rằng những hoạt động hiện nay của tôi là “thiếu khôn ngoan” và “không đúng lúc.” [Trong công việc hàng ngày,] rất ít khi tôi dừng lại để trả lời những lời chỉ trích về công việc tôi đang làm hay những ý tưởng của tôi. Nếu tôi mà trả lời tất cả những thư từ chỉ trích, thì có lẽ cô thư ký của tôi sẽ chẳng còn thì giờ làm việc gì khác ngoài việc đánh máy thư trả lời suốt ngày, và tôi cũng chẳng còn thì giờ để làm những công việc có tính cách xây dựng. Nhưng vì tôi cảm thấy rằng quý anh em là những người thực sự có thiện ý và những lời chỉ trích của anh em là những lời lẽ chân thành, tôi muốn trả lời thư của anh em bằng những lời lẽ chừng mực và có tình có lý. Tôi nghĩ rằng tôi phải nêu lên lý do tại sao tôi lại có mặt ở Birmingham, vì quý anh em đã bị ảnh hưởng bởi cái quan điểm chống lại “những người ngoài xía vô.” Tôi được vinh dự làm chủ tịch của Hội đồng Lãnh đạo Giáo hạt miền Nam, một tổ chức hoạt động trên mọi tiểu bang miền Nam, có trụ sở trung ương tại thành phố Atlanta, bang Georgia. Chúng tôi có khoảng 85 các chi hội trải khắp miền Nam, và một trong những tổ chức này là Phong trào Cơ đốc Đòi Nhân quyền tại Alabama. Chúng tôi thường xuyên chia sẻ với các chi hội những phương tiện tài chánh, giáo dục, và cả nhân sự nữa. Cách đây vài tháng, chi hội Birmingham đã yêu cầu chúng tôi chuẩn bị tham gia vào một chương trình hành động trực tiếp bất-bạo động, nếu tình hình đòi hỏi. Chúng tôi đã sẵn lòng đồng ý tham gia, và khi thời điểm đến, thì chúng tôi thực hiện như đã hứa. Như vậy, tôi, và vài thành viên trong văn phòng của tôi tới đây, vì chúng tôi được mời tới đây. Tôi có mặt ở đây vì tôi có mối quan hệ về tổ chức với chi hội ở đây. Nhưng căn bản hơn, tôi có mặt tại Birmingham bởi vì sự bất công đang diễn ra ở đây. Cũng giống như những nhà tiên […]
Chương 4
Những Giới hạn về Quyền của Xã hội Đối với Cá nhân Vậy thì đâu là giới hạn chính đáng của quyền tối thượng của một cá nhân trên chính mình? Quyền của xã hội bắt đầu từ nơi nào? Bao nhiêu phần đời sống con người được dành cho cá tính và bao nhiêu phần được dành cho xã hội? Cả cá tính lẫn xã hội sẽ nhận được phần tương xứng dành cho mình nếu mỗi thành phần lưu ý đến những gì đặc biệt liên hệ đến chính mình. Phần đời sống liên hệ đến cá nhân sẽ thuộc về cá tính; phần đời sống liên hệ đến xã hội sẽ thuộc về xã hội. Tuy rằng, xã hội không được xây dựng trên một khế ước, và tuy rằng, ta đâu có ích lợi gì khi bày đặt ra một khế ước để từ đó suy diễn ra những bổn phận đối với xã hội; mỗi người nhận được sự che chở của xã hội đều phải trả ơn cho xã hội về những lợi ích ấy. Vì sống trong xã hội, nên mỗi người bắt buộc phải có một cách cư xử nào đó đối với những người khác. Việc đầu tiên là không làm tổn hại đến quyền lợi của người khác; hay nói đúng hơn là một số quyền lợi người đó được xem như có quyền hưởng, hoặc do pháp luật quy định hoặc do một sự thỏa thuận ngầm. Việc thứ hai là người đó phải đảm nhận phần công việc và phần hy sinh (được quy định một cách công bằng) cần thiết để bảo vệ xã hội chống mọi sự xúc phạm và quấy nhiễu. Xã hội có lý do chính đáng để áp đặt mọi biện pháp chế tài bằng mọi giá đối với những ai từ chối làm tròn bổn phận của mình. Nhưng đó không phải là tất cả những gì xã hội có thể làm. Hành vi của một người có thể làm tổn hại đến người khác, hay tỏ ra thiếu quan tâm đến phúc lợi của người khác nhưng nó không xâm phạm đến những quyền lợi đã được ấn định. Và như vậy, kẻ vi phạm có thể bị công luận kết án chứ không phải bởi luật pháp. Chừng nào mà cách cư xử của một người làm tổn hại đến quyền lợi của kẻ khác, xã hội có quyền phán xét lối cư xử ấy; và vấn đề xét xem một sự can thiệp như vậy của xã hội có lợi ích cho phúc lợi của mọi người hay không, là một đề tài được mở rộng cho mọi cuộc tranh luận. Nhưng, không có lợi ích gì đặt ra vấn đề ấy khi cách cư xử của một người không ảnh hưởng đến ai khác ngoài chính đương sự; hay khi cách cư xử ấy ảnh hưởng đến người khác nếu những người này thích như vậy (với điều kiện những người này là những người trưởng thành và có đầy đủ lý trí). Trong tất cả mọi […]
Chương 3
Cá Tính Là Một Trong Những Yếu Tố Của Phúc lợi Ta vừa thấy các lý do tại sao con người cần phải có tự do để tạo nên những quan điểm của mình và diễn đạt chúng một cách không giới hạn; ta cũng đã thấy rằng, nếu tự do không được thừa nhận, hay nếu ta không tranh đấu, đòi hỏi nó dù bị cấm đoán, thì hậu quả sẽ vô cùng tai hại cho tâm trí và qua đó ảnh hưởng đến phẩm chất đạo đức tự nhiên của con người. Kế đến, ta hãy xét xem, có phải chính những lý do đó đã quy định rằng, con người phải được tự do hành động dựa theo quan điểm của mình – nghĩa là được tự do áp dụng những quan điểm ấy vào đời sống mà đồng loại không có quyền ngăn cấm, cả về mặt thể chất lẫn đạo đức, miễn là họ chịu trách nhiệm về những hành động đó. Điều kiện cuối cùng này đương nhiên là cần thiết. Không ai giả thiết rằng, hành động phải được tự do như quan điểm. Trái lại, ngay các quan điểm cũng bị kết án khi chúng được đưa ra trong những hoàn cảnh có vẻ như xúi giục một hành động tai hại nào đó. Quan điểm cho rằng, các nhà buôn bán bắp là những kẻ gây đói cho người nghèo, hay tài sản tư hữu là các vật đánh cắp của người khác có thể không bị kết án khi chúng được phổ biến trên báo chí; nhưng các quan điểm đó xứng đáng bị trừng phạt nếu ta phát biểu chúng trước mặt một đám đông giận dữ tụ họp trước một cửa hàng buôn bán ngũ cốc, hay nếu ta cầm những tấm biểu ngữ viết những điều ấy trước đám đông. Bất cứ hành động nào, nếu không có lý do hợp lý mà làm hại đến người khác, thì có thể bị kiểm soát, và trong những trường hợp trầm trọng nhất, thì phải bị kiểm soát – bởi sự bất bình của dư luận – hay nếu cần, bởi một sự can thiệp tích cực của công chúng. Tự do của mỗi cá nhân phải được hạn chế trong giới hạn này: người đó không có quyền làm hại kẻ khác. Và khi ta không làm hại đến kẻ khác và làm những gì chỉ liên hệ đến ta, theo những sở thích và phán đoán của ta, thì những lý lẽ cho rằng quan điểm phải được tự do cũng chứng minh rằng, ta có quyền tự do thực hành các quan điểm của ta mà không sợ bị trừng phạt. Rằng, con người không bao giờ không bị lầm lẫn; rằng, phần lớn các sự thật chỉ là những sự thật nửa vời; rằng, ta không nên mong muốn có sự đồng nhất về quan điểm trừ khi có một sự so sánh toàn diện và tự do nhất với các quan điểm đối kháng; và rằng, sự đa dạng về quan điểm […]
Chương 2
Tự do Tư tưởng và Tranh luận Ta hy vọng rằng, bây giờ không còn là lúc ta phải bảo vệ sự “tự do báo chí,” một trong những bảo đảm che chở chúng ta chống lại một chính quyền thối nát và bạo ngược. Ngày nay, ta không cần phải tranh luận về việc một nhà lập pháp hay một nhà hành pháp mà quyền lợi đi khác với quyền lợi của dân chúng lại có thể áp buộc dân chúng phải tuân theo ý kiến của mình, hay phải đi theo chủ nghĩa này, nghe theo những lời tranh luận kia. Ngoài ra, các nhà tư tưởng trước kia đã viết quá nhiều và quá hay về vấn đề này khiến ta không cần nhấn mạnh đến nó nữa. Tuy rằng luật pháp Anh Quốc về báo chí ngày nay cũng đầy tinh thần nô lệ như dưới triều Tudors, ta không sợ nó trở thành một công cụ đàn áp tự do tranh luận về chính trị, trừ ra trong những lúc hoang mang nhất thời, khi mà các tổng trưởng và các quan toà mất bình tĩnh vì họ sợ một cuộc nổi dậy.[1] Và nói một cách tổng quát, trong một quốc gia theo chế độ lập hiến, ta không sợ chính phủ – dù hoàn toàn hay không hoàn toàn có trách nhiệm với dân chúng – lại thường xuyên kiếm cách kiểm soát sự tự do phát biểu, ngoại trừ khi chính phủ là cơ phận đại diện cho sự bất khoan dung của quần chúng. Bây giờ ta hãy giả sử rằng, chính phủ và dân chúng hợp thành một khối, và chính phủ không bao giờ nghĩ đến việc trở nên một quyền lực áp bức, trừ ra khi làm như vậy, chính phủ cho mình là tiếng nói của dân chúng. Nhưng tôi từ chối không chấp nhận cho dân chúng có cái quyền áp bức đó – dù bởi chính mình hay qua trung gian của chính phủ – bởi vì quyền ấy bất hợp pháp. Một chính phủ tốt nhất hay một chính phủ tồi tệ nhất cũng không có quyền làm như vậy: một loại quyền lực như vậy, khi được sử dụng theo dư luận, sẽ gây nhiều tai hại hơn là khi chống lại dư luận. Nếu tất cả nhân loại – trừ một người – đồng ý trên một quan điểm, họ không có quyền bắt buộc người đó phải giữ im lặng; cũng như người ấy không có quyền bắt buộc tất cả nhân loại phải giữ im lặng nếu người ấy có quyền làm như vậy. Nếu một quan điểm chỉ là sở hữu cá nhân không có giá trị gì đối với người khác; nếu sự việc bị ngăn trở không được phát biểu quan điểm chỉ là một sự tổn hại cá nhân, thì sẽ có một sự khác biệt nếu sự tổn hại ấy xảy ra cho một nguời hay cho nhiều người. Nhưng có một tai hại đặc biệt khi ta ngăn cấm việc phát biểu một quan […]